Chuyển đến nội dung chính

luan an tien si, ngu van,chuyen nganh, ly thuyet, va lich su, van hoc,tieu thuyet, nam bo, cuoi the ky xix, dau the ky xx, vo van nhon

 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
 Chuyên ngành: LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
Mã số : 5.04.01

TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX 

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : GS.  HOÀNG NHƯ MAI 



DẪN NHẬP

1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN

Những cứ liệu được công bố gần đây cho thấy tiểu thuyết Việt Nam hiện đại xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX ở Nam Bộ và đã có những thành tựu rất đáng chú ý. Trên nền tư liệu mặc dù chưa sưu tầm đầy đủ này, người ta nhận ra tiểu thuyết của vùng đất này đã một thời phát triển rất sôi nổi với hàng trăm cây bút và gần nghìn tác phẩm, đã cuốn hút đông đảo độc giả và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng họ. Nhưng từ sau 1945, văn học quốc ngữ Nam Bộ nói chung và tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng có một thời gian khá dài đã bị giới nghiên cứu phê bình quên lãng. Riêng về tiểu thuyết, chỉ mỗi một Hồ Biểu Chánh được giới thiệu và đánh giá cao. Vì vậy nghiên cứu toàn cảnh tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như là giai đoạn khởi đầu của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng và của văn học Việt Nam hiện đại nói chung, là một việc làm cần thiết, nhằm bổ khuyết cho những khoảng trống đáng tiếc và góp phần nhận thức đầy đủ về tiến trình hiện đại hoá của tiểu thuyết nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Sau một thời gian dài bị bỏ quên, đến nay tiểu thuyết chữ quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, nhất là từ sau 1975. Đây là điều tất yếu bởi bộ phận văn học này đã đóng vai trò đặc biệt trong quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. 2Có thể chia lịch sử nghiên cứu vấn đề tiểu thuyết chữ quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thành ba giai đoạn: Từ 1945 trở về trước, từ 1945 đến 1975 và từ 1975 cho đến nay.

2.1. Ở trong nước:

2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945:

Tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ hình thành vào cuối thế kỷ XIX và phát triển khá mạnh vào những năm đầu thế kỷ XX. Nhiều bài quảng cáo, giới thiệu, điểm sách, phê bình, tranh luận, bút chiến sôi nổi về các tác phẩm trên báo chí đương thời đã giúp chúng ta hình dung được phần nào diện mạo của tiểu thuyết Nam Bộ thời kỳ đó.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, tiểu thuyết được đề cập sớm nhất có lẽ là tác phẩm Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu. Trên Lục Tỉnh tân văn số 402 ngày 11.11.1915, Nguyễn Văn Nghĩa, trong bài Tự do diễn đàn đã có lời khen tiểu thuyết này là “đặt lớp nghe đã hay, mà văn nói nghe cũng giỏi, thiệt là dủ sức dủ kỳ, coi không muốn thôi”. Và sau đó hơn mười năm, tác phẩm này đã tạo ra một cuộc bút chiến sôi nổi cùng với một kết cục buồn. Phe công kích Lê Hoằng Mưu có những tên tuổi nổi tiếng như Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Háo Vĩnh, Cao Hải Để, Trì Nam Tử.. . Đã có những ý kiến hết sức gay gắt như “Vì mười năm trở lại đây (nếu chúng tôi không nhớ lắm) Ông Lê Hoằng Mưu đặt ra nhiều bộ tiểu thuyết ngôn tình rất đê tiện như thế: Hà Hương phong nguyệt, Hồ Thể Ngọc, Oán hồng quần, Đỗ Triệu kỳ duyên. Trong các bộ truyện ấy, khoản nào lại chẳng “làm cho bại hoại phong tục, suy đồi luân lý” mà hiện nay vẫn in bán khắp 3 nơi rất hại cho đàng giáo dụ hàng nữ lưu và đoàn hậu tấn lắm!” (Công luận báo số 40 – 1928). Thậm chí có tựa bài báo còn như một lời tuyên án “Lê Hoằng Mưu là một đứa tội nhơn lớn nhứt của nước An Nam”  (Công luận báo, số 48,1928).

Cuối cùng chính quyền thuộc địa đã ra lệnh tịch thu và tiêu hủy tác phẩm. Lỗi bước phong tình (1922) Của Nguyễn Thành Long cũng gây ra nhiều ý kiến trái ngược nhau. Nguyễn Mạnh Bổng rất khen ngợi khi giới thiệu tiểu thuyết này trên báo Hữu Thanh số 21 ngày 1.6.1922, nhưng bài viết này đã được đáp lại bằng một ý kiến phủ định khá gay gắt của Dá Cô trên Nam Bộ kinh tế báo số 82 ngày 5.7.1922.

Các tiểu thuyết của các tác giả khác như Mười lăm năm lưu lạc, Hiếu nghĩa vẹn hai, Lê Triều Lý Thị của Phạm Minh Kiên cũng được giới thiệu bởi TS, Hồ Văn Hiến, LQ trên các báo Nông cổ mín đàm, Đông Pháp thời báo, Lục Tỉnh tân văn vào những năm 1922,1923,1931. Riêng Tỉnh mộng của Hồ Biểu Chánh đăng trên Đông Pháp thời báo đã được Nguyễn Tường đánh giá rất cao trong bài Một mối cảm tình đối với nhà tiểu thuyết (Đông Pháp thời báo, số 203 – 204 tháng 10.1924). Tác phẩm này cũng được Minh Quang phê bình trên Lục Tỉnh tân văn (số 3916,3918 tháng 10.1931). Lối văn “tả chơn”  trong các tiểu thuyết Tỉnh mộng, Cay đắng mùi đời, Tiền bạc bạc tiền của Hồ Biểu Chánh cũng được Phạm Minh Kiên bàn đến trong bài Giải chỗ tưởng lầm đăng trên Đông Pháp thời báo số 468 ngy 6.8.1926. Tài mạng tương đố của Nguyễn Chánh Sắc được Phạm Minh Kiên và Tân Dân Tử bình luận trong Đông Pháp thời báo (số 481 4 ngy 8.9.1926 và số 496 ngày 13.10.1926). Giọt máu chung tình, Gia Long tẩu quốc, Gia Long phục quốc của Tân Dân Tử cũng được bình phẩm trong Đông Pháp thời báo (473 ngy 20.8.1926) Và Lục Tỉnh tân văn (số 3454 ngày 14.3.1930, số 4256 ngày 5.12.1932).

Tiểu thuyết và tác giả Nam Bộ cũng được các nhà văn, nhà báo, nhà phê bình đến từ miền Trung và miền Bắc chú ý. Phan Khôi (Trung Kỳ), trong khi hoạt động ở Sài Gòn, đã viết bài Từ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Trai cho đến Nguyễn Chánh Sắc, Đặng Thúc Liêng đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 28 năm 1929. Thiếu Sơn, nhà phê bình được xem là người mở đường cho phê bình văn học hiện đại, trong một bài viết trên báo Phụ Nữ Tân Văn (số 106 ngày 29.10.1931), đã rất đề cao Hồ Biểu Chánh:

Ông Hồ Biểu Chánh chẳng những đã biết do sự quan sát mà sáng tạo ra được những nhân vật đúng với cái khuôn mẫu người đời, biết cho những nhân vật đó sống theo với cái tánh cách riêng, cái thái độ riêng, trong mỗi hoàn cảnh riêng của họ, mà ông còn khéo cho những nhân vật đó hiệp thành một cái xã hội gần giống như cái xã hội của ta, cho kẻ giầu gặp kẻ nghèo, người hèn đụng người sang, kẻ gian hùng quỷ quyệt với bực nữ sĩ anh hào, vị giai nhân tài nữ với kẻ vô học phàm phu, vì những sự xung đột về danh về lợi, về tư tưởng, tánh tình, về tinh thần khí tiết, mà quay cuồng, vật lộn, mà chiến đấu cạnh tranh, gây nên cái vẻ hoạt động trong đời, cho độc giả được thỏa lòng quan sát [150,9].

Trong cuốn Phê bình và cảo luận (1933) In sau đó hai năm, Thiếu Sơn cũng nêu lên một số nhận xét bước đầu về một vài cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Thời Xuyên và nêu tên một số nhà văn ởNam Bộ như: Phú Đức, Phan Huấn Chương, Tân Dân Tử… Ở miền Bắc, do thiếu thông tin nên các nhà nghiên cứu không mấy chú trọng đến mảng tiểu thuyết Nam Bộ. Phạm Quỳnh, người bàn bạc sớm nhất về thể loại tiểu thuyết, đã không đề cập gì đến tiểu thuyết Nam Bộ trong bài viết Bàn về tiểu thuyết (1921) Đăng trên báo Nam Phong. ViệtNam văn học sử yếu (1941) Của Dương Quảng Hàm, một công trình có tính chất tổng kết cũng thế. Riêng Nhà văn hiện đại (1942 – 1945) Của Vũ

Ngọc Phan bên cạnh nhà thơ Đông Hồ có điểm qua chân dung của Hồ Biểu Chánh. Hầu hết các tác giả đều xem Quả dưa đỏ (1923) Của Nguyễn Trọng Thuật và Tố Tâm (1925) Của Hoàng Ngọc Phách được sáng tác ở miền Bắc là những tác phẩm tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở nước ta.

2.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975:

Từ năm 1945 năm 1954, ngoại trừ Nghiêm Toản trong công trình Việt Nam văn học sử trích yếu in ở Sài Gòn (1949) Cho rằng thuở ấy ở miền Nam chưa có văn học, mà chỉ có truyện Tàu dịch như Thủy hử, Tây du ký, Phong thần diễn nghĩa…, còn không có công trình nào đáng chú ý nghiên cứu về văn học Nam Bộ.

Từ 1954, đất nước tạm thời bị chia làm hai miền Nam Bắc, việc nghiên cứu về văn học Nam Bộ, tiểu thuyết Nam Bộ do đó cũng có những khác biệt.

1.2.1. Ở miền Bắc:

Do thiếu thông tin và tư liệu hạn hẹp nên các nhà nghiên cứu ở miền Bắc ít quan tâm đến văn học Nam Bộ và tiểu thuyết Nam Bộ. Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (tập IV) (1962) Có lẽ là công trình đầu tiên sau 1945 có hẳn một chương để giới thiệu thân thế và tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Tác giả Nguyễn Đình Chú trong chương này đã nghiên cứu khá kỹ về nhà văn viết nhiều tiểu thuyết nhất Nam Bộ này. Năm 1972, nhóm Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Tạ Phong Châu, Nguyễn Văn Phú trong Lược truyện các tác gia Việt Nam có đặt lại vấn đề như sau:

Những tiểu thuyết Pháp đều xuất hiện trên các báo miền Nam trước tiên đã có những người như Hồ Văn Đoàn phỏng dịch tiểu thuyết phương Tây từ năm 1905, thế thì tiểu thuyết lãng mạn có thể không phải chỉ xuất hiện trước tiên ở miền Bắc từ 1921,1922 với Cành lê điểm tuyết, Cuộc tang thương và từ năm 1925 với Tố Tâm mà có lẽ phải xuất hiện ở miền Nam từ nhiều năm trước thời gian đó (1922). Ở Nam Bộ U tình lục xuất bản năm 1909 hay Chúa tàu Kim Quy xuất bản năm 1913 hay 1926, Lỗi bước phong tình và Oan kia theo mãi tiếc rằng không biết rõ nội dung, nhưng cái tên của nó cũng nói lên phần nào tính lãng mạn của tiểu thuyết và còn có thể có nhiều quyển khác nữa xuất bản ở miền Nam từ 1921 trở về trước bị thất lạc, cần nghiên cứu các thư mục trong Thư Viện Quốc Gia của Pháp mới rõ được [39,60].

Đây là một giả thuyết khoa học rất đáng trân trọng, nhưng rất tiếc là không ai chú ý. Công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974) Của Phan Cự Đệ chỉ đề cập đến Hồ Biểu Chánh và vẫn khẳng định Tố Tâm là tác phẩm mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.

2.1.2.2. Ở miền Nam:

Có điều kiện thuận lợi hơn để nghiên cứu về văn học Nam Bộ và tiểu thuyết Nam Bộ, nhưng không phải nhà nghiên cứu ở miền Nam nào cũng quan tâm đúng mức đến mảng văn học này. Trần Thanh Hiệp, trong một bài diễn thuyết tại câu lạc bộ Văn hóa ở Sài Gòn ngày 12- 8-1960, vẫn cho rằng trong quá khứ, nền văn chương miền Nam không có gì đáng gọi là văn chương cả. Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III Văn học hiện đại 1862 – 1945 (1965), Phạm Thế Ngũ đã dành hẳn một phần viết về tiểu thuyết miền Nam. Ở đó, tác giả thừa nhận thể tiểu thuyết đã đi trước một bước ở miền Nam, nhưng rồi ông cũng chỉ nghiên cứu duy nhất trường hợp Hồ Biểu Chánh. Việt Long Giang trên báo Phổ thông số 142 năm 1965 có bài Danh nhân Tân Châu: Ông Nguyễn Chánh Sắc một nhà văn tiền phong của miền Nam. Tạp chí Văn học số 136 ngày 15.9.1971 đặc biệt dành riêng cho Phú Đức với những bài viết của Phan Kim Thịnh, Ngọa Long, Thượng Sỹ, Vũ Bằng, Tế Xuyên.

Việc tập trung nghiên cứu Hồ Biểu Chánh như là một nhà văn, một nhà tiểu thuyết tiêu biểu của Nam Bộ cũng là hướng nghiên cứu của những công trình như Văn học Việt Nam thế kỷ XIX – tiền bán thế kỷ XX (1800 – 1945) Của Vũ Hân (1967), Văn học sử Việt Nam của Bùi Đức Tịnh (1967)Văn chương và kinh nghiệm hư vô của Huỳnh Phan Anh (1968), Văn học và tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ (1973), Văn học sử thời kháng Pháp (1958 – 1945) Của Lê Văn Siêu (1974) … Tạp chí Văn (Sài Gòn) Số 80, ngày 15-41967 đã dành hẳn một số đặc biệt để tưởng niệm nhà văn Hồ Biểu Chánh.

Cuốn Chân dung Hồ Biểu Chánh (1974) Của Nguyễn Khuê đã giới thiệu chi tiết tiểu sử và quá trình hoạt động văn học, cũng như khảo sát rất tỉ mỉ tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.

Đến năm 1967, trong công trình Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng có phác qua đôi nét về phong trào dịch thuật và sáng tác tiểu thuyết ở Nam Bộ. Còn cuốn Khi những lưu dân trở lại (1969), tuy không là khảo luận văn học, nhưng Nguyễn Văn Xuân đã nêu một vấn đề rất xác đáng:

Hồ Biểu Chánh một cây bút tiêu biểu nhất cho miền Nam, qua các thời kỳ thăng trầm nhất của lịch sử văn học, vẫn đứng vững như thạch trụ. Tại sao nhắc đến tiểu thuyết phôi thai lại không để tâm nghiên cứu những tác giả miền Nam vào khoảng đầu thế kỷ?” [200,11].

Vào thập niên 70, tình hình nghiên cứu văn học Nam Bộ có phần khởi sắc hơn. Bằng Giang với Mảnh vụn văn học sử (1974) Đã bước đầu góp nhặt tư liệu để sau này tiến tới xây dựng công trình Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, một trong những công trình bước đầu đáng chú ý nhất về văn học Nam Bộ xuất bản sau năm 1975.9Đáng chú ý nhất ở giai đoạn này là công trình Phần đóng góp của Văn học miền Nam, những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (1975) Của Bùi Đức Tịnh. Lần đầu tiên con đường hình thành của tiểu thuyết ở Nam Bộ đã được phác họa khá chi tiết, tác giả cho rằng:

Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp từ văn chương cổ điển sang văn chương hiện kim và giai đoạn hình thành nền quốc văn mới, nghĩa là từ 1865 đến 1932, hầu hết các tác phẩm xuất hiện ở miền Nam đều bị coi như không có trong lịch sử văn học miền Nam [176,7].

Theo ông:

Sự bỏ rơi bỏ rớt những đứa con tinh thần dẫu là vô tình mà không hay biết, cho dẫu là những đứa con ấy bị nhìn vội và bị cho rằng không khôi ngô tuấn tú – vẫn là điều hoang phí. Một sự hoang phí như thế không nên để xảy ra nhất là khi xem xét lại, mọi người sẽ nhìn nhận rằng những đứa con rơi đó còn giữ nguyên đặc tính của nòi giống và đã can đảm góp công vào cuộc đấu tranh dai dẳng chống xâm lăng.

Nói về quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết ở Nam Bộ, Bùi Đức Tịnh nhận định:

Hình thức phôi thai xuất hiện sớm nhất ở miền Nam là thơ, tức loại truyện của văn chương cổ điển đội lốt bằng cách lấy cuộc đời của một nhân vật đương thời làm đề tài, kế đến là những truyện không được gọi thẳng như thế mà thường đặt nhan đề 10 với những danh từ ngoại sử hay dị sử lấy đề tài trong lịch sử Việt Nam hay xã hội Việt Nam đương thời và cuối cùng mới đến các tác phẩm được mệnh danh là tiểu thuyết theo thể thức của tiểu thuyết phương Tây. Cũng một cách tổng quát, có thể nói rằng loại thơ xuất hiện cuối thế kỷ XIX, loại ngoại sử, dị sử xuất hiện vào khoảng từ 1910 đến 1920. Loại tiểu thuyết đã hình thành như một văn loại phối hợp bản sắc Việt Nam với những thức sáng tạo của văn học Tây phương, từ 1920 trở đi”.

Công trình của Bùi Đức Tịnh chỉ giới thiệu những tiểu thuyết từ 1920 trở về trước, và trong việc giới thiệu cũng có những sai sót, ví dụ như phần giới thiệu về tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu; Một vài nhận định cũng chưa chính xác, chẳng hạn về báo Nam Bộ địa phận, nhưng cần phải ghi nhận sự đóng góp quan trọng của Bùi Đức Tịnh trong việc phác họa quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ, đặc biệt là việc phát hiện tác phẩm Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản…

2.1.3. Từ sau năm 1975

Từ năm 1975, đất nước hoà bình, thống nhất, điều kiện nghiên cứu có nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên cũng phải đến giữa thập kỷ 80 trở đi, công việc nghiên cứu văn học Nam Bộ và tiểu thuyết Nam Bộ mới thật sự sôi nổi. Bộ Từ điển văn học gồm 2 tập xuất bản năm 1983,1984 chỉ giới 11 thiệu duy nhất một tác giả tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX, đó cũng lại là Hồ Biểu Chánh.

Năm 1985, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1958 – 1920 (quyển II) Do Huỳnh Lý chủ biên có phần viết ngắn về tiểu sử của Trần Thiên Trung và trích giới thiệu tiểu thuyết Hoàng Tố Anh hàm oan với lời đánh giá khá cao về tính hiện thực của tác phẩm. Tiếp theo là những công trình như Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên, Truyện thầy Lazaro Phiền (1987) Của Nguyễn Văn Trung, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1988) Của nhiều tác giả, Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (1988) Của hai tác giả Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng, Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900-1954) (sơ thảo) Của Hoài Anh - Thành Nguyên - Hồ Sĩ Hiệp (1988), Tiến trình văn nghệ miền Nam (1990) Của Nguyễn Q. Thắng, Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 –1930 (1992) Của Bằng Giang…

Công trình của Nguyễn Văn Trung đã điểm lại các loại truyện viết bằng chữ quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và phân tích Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, với mục đích chứng minh đây là tác phẩm tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở nước ta chứ không phải là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách chỉ ra đời sau đó gần 40 năm. Tập sách còn đề cập đến hàng loạt các nhà văn Nam Bộ khác, như Nguyễn Khánh Nhương, Trương Duy Toản, Michel Tình, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắc….

Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 của Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng đã có những nhận định rất sâu sắc về sự hình thành và phát triển 12 của nền văn học mới, về sự ra đời của truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhưng có lẽ do tư liệu về văn học Nam Bộ còn hạn chế nên hai tác giả chỉ phân tích sâu được Hồ Biểu Chánh với tư cách “là người viết nhiều tiểu thuyết nhất ở Việt Nam”. Điều đáng chú ý là hai tác giả đã xem Nguyễn Trọng Quản với tác phẩm Truyện thầy Lazaro Phiền là “người đầu tiên viết truyện ngắn của nền văn học mới”.
----------------------------------------------------------------------
MỤC LỤC
PHẦN DẪN NHẬP
1. Mục đích, ý nghĩa của luận án
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp mới của luận án
6. Cấu trúc luận án
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Tiền đề kinh tế – chính trị
1.2.1. Giáo dục
1.2.2. Chữ quốc ngữ
1.2.3. In ấn và xuất bản
1.2.4. Báo chí quốc ngữ
1.3.1. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Hoa
1.3.
1.3.3. Ảnh hưởng của văn học truyền thống
CHƯƠNG 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Giai đoạn phôi thai
2.2. Giai đoạn trưởng thành và phát triển
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
3.1. Đặc điểm về lực lượng sáng tác
3.1.1. Một kiểu hình nhà văn mới
3.1.2. Các nhà văn nữ
3.1.3. Các nhà văn Công giáo
3.1.4. Quan niệm về tiểu thuyết
3.1.4.1. Quan niệm về chức năng giáo dục
3.1.4.2. Quan niệm về phản ánh hiện thực
3.1.4.3 Quan niệm về thể loại
3.1.4.4. Quan niệm về thủ pháp nghệ thuật
3.1.4.5. Quan niệm về ngôn ngữ tiểu thuyết
3.2. Đặc điểm về nội dung
3.2.1. Tiên phong trên con đường hiện đại hóa
3.2.2. Ý thức hướng ngoại
3.2.3. Chú trọng chức năng giải trí
3.2.4. Quan tâm đến công chúng, đặc biệt công chúng bình dân
3.2.5. Đậm đà tình yêu nước, giàu tính đạo lý, có tính dân chủ cao
3.3. Đặc điểm về hình thức loại thể
3.3.1. Các thể tài tiểu thuyết
3.3.1.1. Tiểu thuyết tâm lý
3.3.1.2. Tiểu thuyết hành động
3.3.1.3. Tiểu thuyết lịch sử
3.3.1.4. Tiểu thuyết thế sự
3.3.2. Một số đặc điểm về nghệ thuật
3.3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.3.2.3. Ngôn ngữ tiểu thuyết
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
-----------------------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I. TIẾNG VIỆT
1. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp, Thành Nguyên (1988), Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900 – 1954), Nxb TP. Hồ Chí Minh.
2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Kiều Anh (2007), Một chặng đường lý luận về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM.
5. Nguyễn Kim Anh (2004), “Tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của các cây bút nữ, Kiến thức ngày nay”, (502), TP. Hồ Chí Minh.
6. Huỳnh Phan Anh (1999), Không gian và khoảng khắc văn chương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
7. Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.
8. Bakhtin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu), Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
9. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên) (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Lại Nguyên Ân (1998), Đọc lại người trước, đọc lại người xưa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 179
11. Nguyễn Huỳnh Kiều Nguyệt Diễm Cầm (2005), Tìm hiểu tiểu thuyết trên báo Lục tỉnh tân văn đầu thế kỷ XX, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành văn học, Khoa Ngữ văn và Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM.
12. Nguyễn Huệ Chi (2002), “Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu”, Văn học, (5), Hà Nội.
13. Hồng Chương (1985), 120 năm báo chí Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Phạm Văn Diêu (1960), Van học Việt Nam, quy?n 1, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
16. Hà Thị Dịu (2006), Lý luận và phê bình trên báo chí Nam Bộ 1930 – 1975, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành văn học, Khoa Ngữ văn và Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM.
17. Nguyễn Thị Dịu (2006), Tiểu thuyết của Phạm Minh Kiên, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành văn học, Khoa Ngữ văn và Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM.
18. Thủy Thị Dung (2007), Khuynh hướng hiện thực phê phán trong truyện ngắn Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành văn học, Khoa Ngữ văn và Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM.
19. Nguyễn Trang Dung (2005), Những đóng góp của báo Phụ nữ tân văn trong việc hình thành nền văn học mới, Khóa luận tốt nghiệp 180 chuyên ngành văn học, Khoa Ngữ văn và Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM.
20. Đinh Trí Dũng (2005), “Từ những ảnh hưởng của thể loại truyện Nôm đến những cách tân theo hướng hiện đại của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ở thời kỳ đầu”, Văn học, (7), Hà Nội.
21. Tôn Thất Dụng (1993), “Thể loại tiểu thuyết trong quan niệm của các nhà văn ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX”, Văn học, (2), Hà Nội.
22. Tôn Thất Dụng (1998), Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến 1932, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội I.
23. Đinh Trần Dương (2002), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Đặng Anh Đào (2002), “Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam: một vài hiện tượng đáng lưu ý”, Văn học, (2), Hà Nội.
25. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Vĩnh Long (Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Biên Hòa, Nxb TP. Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
28. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 181
29. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm, biên soạn) (1998), Tạp chí Tri Tân (1941 – 1945) – Phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
31. Vu Gia (2003), Phan Khôi – Tiếng Việt, báo chí và Thơ mới, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
32. Bằng Giang (1974), Mảnh vụn văn học sử, Chân Lưu, Sài Gòn
33. Bằng Giang (1990), “Hệ quả chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Nam Bộ trước kia về mặt xã hội và văn học (1865 – 1930)”, Văn, (10), TP. Hồ Chí Minh.
34. Bằng Giang (1993), “Truyện Tàu với một số tiểu thuyết gia đầu tiên ở Việt Nam”, Kiến thức ngày nay, (100), TP. Hồ Chí Minh.
35. Bằng Giang (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Bằng Giang (1994), Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký, Nxb Văn Học, Hà Nội.
37. Bằng Giang (1999), Sài Côn cố sự, Nxb Văn Học, Hà Nội.
38. Đoàn Lê Giang (2006), “Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1945 – thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Văn học, (7), Hà Nội.
39. Trần Văn Giáp (chủ biên), (1972), Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 182
40. Nguyễn Thị Bé Hai (2006), Văn xuôi nữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ , Khoa Ngữ văn và Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM.
.......................................
 II. TIẾNG ANH VÀ PHÁP:
204. A. Chéon (1889), Cours de langue anamite, Nxb F.H. Schneider, Ha N?i.
205. Paul Boudet (1967), Bibliographie de l’Indochine (1930-1935), Tome IV, Paris.
206. Bùi Xuân Bào (1972), Le roman Vietnamien contemporain, Tủ sách Nhân văn Xã hội, Sài Gòn.
207. Maurice M. Durand and Nguyen Tran Huan (1985), An Introduction to Vietnamese Literature, translated by D. M. Hawke, New York: Columbia University Press. 198 

keyword: download luan an tien si, ngu van,chuyen nganh, ly thuyet, va lich su, van hoc,tieu thuyet, nam bo, cuoi the ky xix, dau the ky xx, vo van nhon 

 linkdownload: LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

sách giáo trình công nghệ thông tin pdf doc - sách tham khảo

[-] Mục Lục 1 kế toán doanh nghiệp với visual basic https://ambn.vn/product/35662/ke-toan-doanh-nghiep-voi-visual-basic.html Những kiến thức cơ bản về kế toán như biểu mẫu, báo cáo, sổ sách chứng từ kế toán đã được trình bầy ở những bộ sách trước cùng tác giả, và coi như ở tập sách này là bạn đã nắm rõ về microsoft access và visual basic. Trong sách này, sẽ hướng dẫn bạn thêm khi thiết kế các giao diện nhập dữ liệu, xử lý và báo cáo trong chương trình kế toán, hiểu rõ những kỹ thuật và công cụ lập trình nâng cao và dễ dàng thiết kế thành công một chương trình quản lý kế toán doanh nghiệp bằng Visual Basic 2. lập trình cơ sở dữ liệu visual basic sql server https://ambn.vn/product/35577/lap-trinh-co-so-du-lieu-visual-basic-sql-server.html Cuốn sách này cung cấp cho người học những thông tin chi tiết cảu các công cụ kỹ thuật hiện nay như ADO, ADO MD và ADOX, MSDE, .. SQL Namespace.. Mục tiêu cuốn sách là cung cấp các kiến thức ở mức độ chuyên sâu những công cụ mà kết hợp giữa

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long Mục Lục Lời mở đầu Chương I : Phân tích kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long trong thời gian qua II.Đánh giá hoạt động marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long thời gian qua Chương II : Phân tích môi trường marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Phân tích môi trường marketing vĩ mô II.Phân tích môi trường marketing vi mô III. Phân tích môi trường marketing nội bộ IV. Phân tích swot Chương III. Phân đoạn thị trường của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long với sản phẩm bút bi Thiên Long I. Vị trí hiện tại của doanh nghiệp II. Xác định đối tượng khách hàng hay thị trường cần phân đoạn III. Phân chia thị trường theo những tiêu thức thích hợp IV. Đánh giá tiềm năng của các đoạn thị trường V. Lựa chọn các phương thức marketing nhằm khai thác các đoạn thị trường mục tiêu Chương IV. Xác định chiến lược M

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG HỌC VIÊN: BẾ THỊ DIỆP – HƯỚNG DẪN KH: TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT CHUYÊN NGÀNH: ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁO TRONG GIÁO DỤC MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu 6. Khung lý thuyết của đề tài 7. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.2. Các công trình trong nước 1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 1.2.1. Hoạt động học tập trong nhà trường 1.2.2. Loại hình nhà trường PTDTNT 1.2.3. Đặc trưng học sinh THPT DTTS 1.2.4. Các khái niệm công cụ của đề tài 1.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG Chương 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 2.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.1. Tổng thể