THÁNG BẨY QUA NGHĨA TRANG HÀM RỒNG
Tháng Bảy, nắng
đã thôi chát chúa những ban trưa còn mang tên mùa hạ, mưa bắt đầu trầm tư, lê
thê lười biếng đổ dài lên ngày. Tôi ôm bó huệ trắng, thư thả men bờ sông Mã về
Nam Ngạn vào một buổi chiều dịu dàng nắng, phóng khoáng gió và bầu trời mang vẻ
ưu tư rất riêng.
Nghĩa trang liệt
sĩ Hàm Rồng nằm trên phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa. Rời khỏi quốc lộ gió
bụi ồn ào chỉ chừng hai ki- Lô- Mét, mà đến đây tôi bị bất ngờ như bắt gặp một
miền khác, khác hẳn những gì đã thuộc về thành thị. Sự bình yên, thanh tịnh bắt
đầu từ con đường bê- Tông sạch sẽ ngăn ngắn, nối đường chính của phường với
cổng nghĩa trang. Hai bên lối đi là những cây xà cừ vạm vỡ, xanh rợp lá, thân
bền bỉ vững chãi phếch mầu, thẳng tắp nối nhau đứng đón gió từ cánh đồng ùa về
vi vút. Có mấy chiếc võng được mắc dưới tán râm, vài cụ già, đôi ba em bé thư
thả nằm đó để hưởng cái ý vị ngọt lành của trời đất, như được ban riêng cho nơi
này.
Người quản trang
tên Nguyễn Châu Long niềm nở tiếp tôi bằng sự nhiệt thành của tấm lòng hiếu
khách, của thói quen và niềm hân hoan khi được đón bất kỳ ai về đây thắp viếng
hương hoa cho đồng đội mình. Chẳng bao xa, cũng không gian đó, chỉ ngoài kia
thôi, cách vài trăm mét đã là quán xá, đã là san sát nhà tầng sầm uất, thế mà
bước chân vào đây, cái sự tĩnh lặng yên ả thanh đãng cứ trong veo đến lạ lùng.
Trong lúc đợi
người quản trang châm hương, tôi đứng lặng nép bó huệ vào lòng, ngước nhìn
tượng đài uy nghi sừng sững và cả ngàn ngôi mộ trắng xóa hiên ngang bình thản
giữa đất trời. Bỗng thấy lòng rưng rưng xúc động, thấy mình bé nhỏ may mắn và
hạnh phúc biết bao so với những hình khối mầu trắng lặng lẽ và thiêng liêng
ngợp nắng kia. Chao ôi! Dẫu biết từ lâu, ý thức từ lâu về sự hy sinh, về những
mất mát của cha anh cho đất nước này, để mình có giây phút này, đứng đây mà suy
tư, mà ngậm ngùi mà kính cẩn, thế nhưng chỉ khi trực diện bằng tất cả giác quan
trước không gian và cảnh tượng như thế, con người ta mới thấu rõ hơn bất kỳ khi
nào về những niệm thức đó.
Dâng hoa thắp
hương xong, tôi theo chú Long đến từng hàng mộ nhỏ, cỏ mơn man gối mình lên
thành mộ, lên lối đi, lấn bấn cuốn vào chân khách như để kể về những miền xanh
bất diệt.
Chú Long dẫn tôi
tới hàng mộ đầu, bên tay phải lối vào tượng đài, tay chỉ giọng trầm nhẹ: "Hẳn
cháu nghe nhiều đến Lê Đình Chinh, người chiến sĩ xin nhập ngũ ở tuổi mười lăm
và anh hùng ngã xuống ở tuổi mười tám. Ngôi mộ của anh được đặt ở vị trí hàng
đầu này đấy"...
Vâng, tuổi mười
tám của anh, và trăm nghìn tuổi mười chín đôi mươi, hay chỉ nhích nhắc hơn thế,
được ghi trên những tấm bia đó, ám ảnh tôi đến nghẹn ngào. Bằng tuổi họ ngày
ấy, tôi, thế hệ chúng tôi được vô tư rong ruổi bao ước mơ cao xa, còn vô lo
chuyện cuộc đời lớn lao ngoài kia. Vậy mà các anh đã đem tuổi xuân ấy đi thắp
xanh cả vòm trời đất Việt, nối dài những dải bình yên Tổ quốc. Hẳn trong số họ,
không ít người khi trút hơi thở cuối cùng vào gió, còn chưa từng biết đến một
lần hò hẹn, còn chưa từng biết cầm tay ai đó mà mộng mơ mầu trắng hoa cưới,
hoặc có những người nhắm mắt mang theo lời thề non hẹn biển, mà chẳng kịp biết
mình đã để lỡ dở một chuyến yêu thương.
Chú Long vừa dẫn
tôi đi vừa thủ thỉ kể chuyện, những câu chuyện đời gắn liền với nghề quản trang
của mình trong suốt hai mươi bảy năm qua. Sau nhiều năm quân trường, năm 1987
chú được điều thẳng về đây khi đang làm nhiệm vụ quốc tế bên nước bạn Lào. Bởi
thế, người đàn ông ấy tha thiết lắm với công việc, nặng lòng lắm với những ngôi
mộ lặng lẽ nơi này. Bởi thế, ông coi tất cả những người nằm đó thân thương, gần
gũi như đồng đội của mình, và bởi thế nên hơn hai nghìn ngôi mộ ở đây mà ông
thuộc gần hết từng vị trí của những cái tên, nhớ rõ câu chuyện về họ nếu đã
từng biết đến.
Đang thao thao,
bất chợt chú dừng lại và ngồi xuống cạnh một ngôi mộ giữa khu K, mân mê rứt
những sợi cỏ đan len lên bát hương, nghẹn ngào: "Khi đón những người đồng
đội về, nhìn phần hài cốt của họ chỉ có một nhúm ít ỏi, thương lắm cháu ạ. Phần
nhiều xương cốt còn lại chẳng biết lạc đâu đó trên đất nước này, điều chừng
giản đơn thế mà càng nghĩ càng xót xa, nhận ra sự mất mát lớn quá so với những
gì ta thấy được". Giây phút ấy không gian như lắng xuống, và chừng gió
cũng ngừng mơn trớn trên những khóm cây. Tôi nghe rõ cả tiếng cá đớp động chân
lá sen dưới lạch nước nhỏ bên cạnh, nghe rõ tiếng thở của người lính già trôi
lãng đãng trong suy tư trăn trở. Chú nói đúng, những điều tưởng bé nhỏ thôi,
nhưng lại là những mất mát vô cùng. Tôi chợt nghĩ, những bé nhỏ ấy đủ lớn lao
cho một Việt Nam có hôm nay an bình vững chãi, thì còn đủ hào khí nung nóng
những dòng máu đang chảy trong triệu triệu con tim tuổi trẻ đất Việt bây giờ...
Hai chú cháu đi
hết bảy khu mộ tự lúc nào không biết. Tôi quên mất thời gian trong mênh mang
những xúc cảm, với bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu nỗi niềm của người lính già
ấy trong suốt buổi chiều. Hoàng hôn đã chùng chiềng đổ thâm thẫm mầu mây, chừng
đang đón đợi cơn mưa từ phía xa tít. Tôi bỗng thấy chiều mang sắc màu mùa Vu
Lan. Trước khi ra về, tôi muốn thả lòng mình theo con mương đầy sen, chạy dài
phía sau tượng đài, hít hà thật sâu hương sen ngào ngạt phả theo gió đồng để
nghe lòng mình nhẹ bẫng mà an nhiên. Sen ở đây không quá xanh tốt, không nhiều
hoa, bông không to và không rực rỡ, chỉ loáng thoáng điểm trong lùm lá những
đóa nho nhỏ vừa vặn xinh, mầu hồng phơn phớt phai, ấy thế mà trông đẹp đến bình
dị và thanh cao giữa chốn linh thiêng này. Chú Long bảo: "Sen này, chú vận
động anh em đi xin về trồng, mỗi năm thêm một ít, đến giờ đã lan khắp con mương
chạy quanh bốn phía rồi. Có sen, nghĩa trang cũng bớt cô quạnh và vong hồn của
những người nằm đó sẽ thanh tịnh bình yên. Chú tin thế, nên trồng thật
nhiều".
Trong lúc rong
ruổi theo bờ mương, tôi sững người khi nhìn thấy hai đài bia lớn nằm ở hai bên,
ngay phía sau tượng đài. Đang trân trân nhìn hàng chữ trên đó, vừa định quay ra
hỏi thì chú Long đã bước nhanh lên trước, giọng trầm vang: "À, chú chưa
nói với cháu về hai ngôi mộ tập thể của những người lính tình nguyện Việt Nam,
các anh hy sinh khi làm nhiệm vụ quốc tế bên nước bạn Lào".
Rồi chú lại say
sưa kể về một cuộc thảm sát của giặc, khi quân ta đang trú ngụ, hoạt động trong
hai chiếc hang ở nước bạn, bất ngờ bị bao vây đánh úp... Ngày tìm kiếm được hài
cốt, đã không thể phân biệt danh tính từng người, nên khi quy tập về đây, những
hài cốt nào cùng một hang thì được chôn cất trong cùng một huyệt mộ. Thế nên ở
đây có một mộ 63 hài cốt và một mộ có 28 hài cốt...
Tôi đứng rất lâu
chỉ để nhìn hàng chữ. Một cảm giác buốt nhói. Những người con của đất nước kiên
trung này, cả khi đã nằm xuống, mà đến cái tên cũng không thể gọi được sau làn
khói hương lam loang đầy mắt mẹ. Thương lắm, những người ở lại, không thể đắp
cho con, cho anh mình một nấm mộ tròn trĩnh trên cánh đồng quê hương ngày đầy
nắng và gió thanh bình. Các anh nằm đó bên nhau từ ngày máu thịt và linh hồn
lẫn vào làm một. Làm một để hóa xanh bầu trời trên cao kia. Làm một để trở
thành bất tử với cái tên "Quân tình nguyện Việt Nam... " trong lòng
dân tộc và bạn bè quốc tế. Tôi nhìn ra bốn bề cánh đồng, thấy hình như những
ngọn lúa, những rặng cây đang cúi đầu. Bình yên, hạnh phúc này đánh đổi nhiều
quá những mất mát vô hình, không tên. Mắt nhòa đi, tôi khẽ cúi đầu lặng lẽ thật
lâu với cỏ.
Chiến tranh đã đi
qua, đã lùi xa và trở thành quá khứ. Đất nước đang lớn lên cùng bạn bè năm
châu. Còn đó những hào hùng oanh liệt, rạng rỡ trên từng trang sử, trong niềm
tự hào của mỗi chúng ta. Và còn đó, cả những vết đau trên mình Tổ quốc, nhưng
nhức lòng người Việt mỗi khi tháng Bảy về. Người nằm xuống có lẽ đã thanh thản,
bởi xương máu của họ đã đổi được bình yên cho non sông, người ở lại cũng khép
nỗi đau, mà tự hào vì người thân của mình đã hóa thành một phần Đất Nước. Nhưng
day dứt lắm những bóng người đau đáu, miệt mòn ngày tháng kiếm tìm phần mộ của
người thân yêu trên khắp các nghĩa trang. Tôi cứ ám ảnh lời của chú Long: "Thương
nhất là những người mẹ, người con, người em nào đó, mang niềm hy vọng bước qua
cánh cổng này, cần mẫn đọc kỹ từng tấm bia, để rồi lại tha thểu vô vọng ra
về".
Rồi họ sẽ lại đi
bao nhiêu nơi như thế. Hy vọng, ngậm ngùi và thất vọng sẽ còn nối tiếp nhau
trong hành trình không hứa hẹn.Chia tay chú Long
và nghĩa trang Hàm Rồng trong ngổn ngang, bâng khuâng nhiều cảm xúc, tôi vội vã
chạy đua cùng cơn giông phía cuối trời, hối hả ngược bờ sông Mã trở ra thành
phố, hòa mình vào ầm ào gió bụi, tấp nập cuộc sống thị thành. Bỗng nhận ra lòng
mình yên bình và thanh tịnh đến lạ. Chừng như đó là lòng tin, lòng tin bất diệt
vào đất nước này. Đất nước đời đời có những người con kiên trung, để cả khi hóa
thành nắm đất nâu, vẫn thắp bỏng được những dòng máu đỏ trong triệu triệu trái
tim thế hệ tiếp nối. Đó là niềm tin bất diệt, dù bây giờ hay ngày mai biển quê
hương dậy sóng, đất nước sẽ bình yên đi qua, bởi người Việt Nam muôn đời yêu
hòa bình và khi cần, họ luôn sẵn sàng đem thân mình chở che cho dải đất hình
chữ S này xanh vẹn nguyên màu của lời ca dao ngàn thuở. Bằng chứng là kia,
những cây phong ba mang dòng máu Lạc Hồng đang hiên ngang chắn gió ngoài
khơi...
Mưa, cơn mưa tháng
Bảy chạy dài theo lối tôi về. Mưa hát: Hỡi những người con đã ngủ yên trong
lòng đất mẹ, Tổ quốc ngàn đời ghi công các anh!
PHẠM TÚ ANH (Theo ND)
===============================
Nhận xét
Đăng nhận xét