CÂU CHUYỆN ĐƯỜNG ĐỜI - MỘT CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI
Kim Văn Chiến[1]
Mở đầu
Câu
chuyện đường đời hay còn gọi là Lịch sử cuộc sống hoặc Lịch sử đời sống
là một cách tiếp cận nghiên cứu truyền thống trong khoa học xã hội như
dân tộc học, nhân học, giáo dục học, xã hội học, lịch sử, khoa học ngôn
ngữ, văn học, và tâm lý học. Câu chuyện đường đời là một trong những câu
chuyện thường nhật nhất trong cuộc đời như: Những kỷ niệm thời thơ ấu,
câu chuyện đi du lịch hoặc kỳ nghỉ, một sự cố trong cuộc sống của chúng
ta, hay là các câu chuyện quanh cuộc sống hàng ngày: Ăn tối với bạn bè,
xum họp gia đình, cuộc trao đổi tại nơi làm việc.. .
Đây
là những lát cắt của cuộc sống mà nhà triết học người Pháp Paul Ricoeur
gọi là những "bản sắc tường thuật" (identités narratives), những bản
sắc cá nhân, nhưng cũng là những bản sắc gia đình, bản sắc hiệp hội, bản
sắc nghề nghiệp, bản sắc tôn giáo, bản sắc quốc gia, v. v.. . ở mức độ
cá nhân: "Tôi tự kể, do đó tôi đang tồn tại và tôi xác nhận sự tồn tại
của tôi trong con mắt của người khác bằng những câu chuyện của cuộc đời
tôi". ở mức độ tập thể, lễ hội, lễ kỷ niệm, là những "đài tưởng niệm" và
thiết lập bản sắc tập thể của chúng ta (Ricoeur, 2006). Từ đó, các nhà
khoa học xã hội sử dụng câu chuyện đường đời nhằm thu thập thông tin
trong các nghiên cứu của mình như một cách tiếp cận định tính. Bài viết
này giới thiệu khái quát về câu chuyện đường đời đi từ khái niệm, chức
năng đến ưu điểm và cách phân tích nội dung của nó như một hướng đi
trong cách tiếp cận định tính.
1. Khái niệm câu chuyện đường đời
1.1. Đôi nét về lịch sử câu chuyện đường đời
Câu
chuyện đường đời trong khoa học xã hội được đánh dấu bởi các giai đoạn
chính sau: Trong những năm 20, trường phái Chicago (Mỹ) Sử dụng câu
chuyện đường đời như một công cụ nhằm tìm hiểu về cuộc sống xã hội của
những cá nhân gặp khó khăn, thiệt thòi và bị phân biệt… William Isaac
Thomas (1863 - 1947) Nhà xã hội học Mỹ và Florian Witold Znaniecki (1882
- 1958) Nhà triết học và xã hội học Ba Lan vào những năm 1919 thể hiện
thành công phương pháp này thông qua những điều tra của mình về "Người
nông dân Ba Lan". (The Polish Peasant) Trong những năm 50 - 60, xã hội
học duy lý và định lượng không quan tâm đến câu chuyện đường đời vì nghi
ngờ tính khách quan và tính trung lập khoa học của nó thì câu chuyện
đường đời mới được đề cập. Những lý do của sự trở lại này là sự quá của
việc xử lý khuyết danh và định lượng của những bảng hỏi thống kê và hơn
nữa là sự quay lại của một xã hội học "thấu hiểu" (la sociologie
compréhénsive) Nhằm thuật lại khách quan các hiện tượng xã hội (Bertaux,
1997). Trong những năm 70, với những công trình của D. Bertaux1 (2005)
Hay Ferraroti2 (1990) Cho thấy, câu chuyện đường đời chiếm một vị trí
ngày càng quan trọng trong khoa học xã hội.
Kể
từ đầu những năm 90, sau công việc của nhà triết học Pháp Paul Ricoeur
(1913 - 2005), bắt đầu một sự phản ánh nhận thức luận về vai trò của kể
chuyện đường đời trong các ngành khoa học về con người và xã hội. Ngày
nay, câu chuyện đường đời đang được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng và trở
thành một trong những phương pháp định tính được biết đến nhiều trong
khoa học xã hội.
1.2. Khái niệm câu chuyện đường đời
Câu
chuyện đường đời hay câu chuyện cuộc sống (tiếng Anh là life story,
tiếng Pháp là récit de vie) Là "các diễn đạt cơ bản mà ở đó một người kể
về cuộc sống của mình cho một hay nhiều người nghe" (Le Grand, 1989:
Tr. 263). Đối với Bertaux (2005), xuất hiện câu chuyện đường đời ngay
tại thời điểm một người kể cho một người khác, một nhà nghiên cứu hay
một ai đó không phải nhà nghiên cứu về kinh nghiệm sống của mình như một
câu chuyện mang tính miêu tả. Những gì mà đặc trưng cho câu chuyện
đường đời, trước hết, đó là kết quả của sự tương tác giữa chủ thể và nhà
nghiên cứu.
Động
từ "kể" (câu chuyện) ở đây là mấu chốt, tức là chủ thể sản xuất lời nói
ở dạng miêu tả. Nói một cách khác, câu chuyện về cơ bản là một "phỏng
vấn hiểu" (l'entretien compre'hensif) (Kaufmann, 1996) Giữa một người kể
(tác giả của câu chuyện) Và một người nghe (thính giả của câu chuyện).
Không
giống như tự truyện (l’autobiographie) Do cá nhân tự kể mà câu chuyện
đường đời được bắt đầu từ một câu hỏi của một điều tra viên nhằm thu
thập thông tin về kinh nghiệm sống của chủ thể trong tình huống mặt đối
mặt. Kinh nghiệm sống ở đây là những sự kiện xảy ra trong cuộc sống và
được lý giải như một dữ liệu khách quan mang ý nghĩa. Câu chuyện được
giới hạn trong một đoạn, một giai đoạn hay hàng loạt kinh nghiệm sống
của chính người kể chuyện.
Tóm
lại, câu chuyện đường đời như một dạng miêu tả; Như kinh nghiệm sống và
những câu chuyện; Như những giai đoạn cuộc đời và như những kinh nghiệm
quá khứ. Những lĩnh vực đề cập đến có thể bao gồm:
- Những quan hệ gia đình và liên cá nhân.
-
Những kinh nghiệm học hành ở trường 1 Daniel Bertaux, nhà xã hội học
người Pháp, Giám đốc nghiên cứu ở Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia
(CNRS), Pháp. 2 Franco Ferrarotti, nhà xã hội học người Italia, Giáo sư
trường Đại học Rome "La Sapienza", Italia.
- Quan hệ nghề nghiệp và việc làm.
1.3. Các khái niệm liên quan
Tự
truyện (l’autobiographie) Là dạng tự kể, nó được viết ở ngôi thứ nhất,
đó là một câu chuyện của chính cái tôi. Tác giả vừa là người kể chuyện
vừa là anh hùng trong câu chuyện của riêng mình, người kể sẽ kể câu
chuyện của mình, hoặc ít nhất là một phần câu chuyện đó về: Thời thơ ấu,
thời thanh niên, một thời điểm quan trọng, trọng đại… Tiểu sử (la
biographie) Là thể loại kể chuyện mà người kể kể lại cuộc đời của một
nhân vật mà người kể biết trực tiếp hoặc gián tiếp.
2. Chức năng của câu chuyện đường đời
Câu chuyện đường đời có các chức năng khác nhau (Bertaux, 2005: Tr. 49):
• Chức năng thăm dò (thu thập dữ liệu) Giúp cho việc phát hiện ra một lĩnh vực chưa được biết đến ở thực địa.
• Chức năng phân tích (diễn giải) Giúp xây dựng các giả thuyết và xây dựng một lý thuyết, sau đó tham chiếu với thực tiễn.
• Chức năng biểu đạt (công bố kết quả) Minh hoạ các lý thuyết được trình bày dưới hình thức trích đoạn có chọn lọc.
3. Điểm mạnh của câu chuyện đường đời
Câu
chuyện đường đời có ưu điểm hơn các phương pháp khác là ở chỗ nó liên
kết và kết hợp các yếu tố trong cuộc đời của một cá nhân. Nói cách khác,
nó liên quan đến đời sống tôn giáo, xã hội... Của cá nhân và từ đó ta
có thể hiểu được các khía cạnh khác nhau của đời sống tương tác với nhau
như thế nào. Nói như Bertaux (Bertaux, 2005: Tr. 8) "Ưu điểm của câu
chuyện đường đời đó là các câu chuyện hình thành một phương pháp mà
phương pháp này cho phép chúng ta nghiên cứu hành động theo thời gian…
quá trình hành động mang tính cá nhân được tính trong cả cuộc đời…".
Trong
câu chuyện đường đời, chúng ta dễ nhận thấy tính chủ động của người kể ở
điểm khởi đầu câu chuyện (tự kể). Điều này thể hiện tính chủ quan trong
từng câu chuyện và không bị ảnh hưởng bởi khách quan (bị hỏi hoặc bị
buộc phải nói) Của đối tượng khác như người phỏng vấn (hỏi). Đó là một
xã hội học chủ quan.
4. Câu chuyện đường đời - Một dạng phỏng vấn đăc biệt
Phỏng
vấn miêu tả Câu chuyện đường đời là dạng phỏng vấn đặc biệt - Phỏng vấn
miêu tả mà trong đó nhà nghiên cứu yêu cầu một người nào đó kể lại cho
nhà nghiên cứu nghe về cuộc sống của mình hoặc một giai đoạn trong cuộc
đời. Như vậy, câu chuyện đường đời đặt trong bối cảnh giữa một người kể
chuyện và một người nghe. Đó là sự hài hoà một cách tự nguyện và tôn
trọng của cả hai bên: Một bên nghe để biết, để hiểu còn một bên kể nhằm
giải thích và lý giải thông tin.
Trong
tương tác này, những dẫn chứng có thể sẽ rất phong phú vì người kể
thoải mái kể (miêu tả) Về kinh nghiệm của mình, những gì họ cảm thấy,
những gì họ nhớ (kinh nghiệm, suy nghĩ, thái độ và nhận thức). Các nhà
nghiên cứu tạo môi trường thoải mái nhất cho người kể nhằm cho họ tự do
biểu đạt trong khi họ không cảm thấy bị hỏi hoặc bị buộc phải nói. Có
thể nói những hành động như: Nghe, đồng cảm, hiểu, trân trọng, trung lập
hay không định hướng là điểm nổi bật của phỏng vấn miêu tả.
5. Phân tích và lý giải câu chuyện đường đời
Phân
tích những câu chuyện đường đời nhằm làm rõ các thông tin có liên quan
và các ý nghĩa ẩn chứa trong đó. Bertaux (2005), giống như Bardin (1977)
Hay Demazière và Dubar (1997), đưa ra hàng loạt công cụ gọi là những
công cụ phân tích nội dung (l’analyse de contenu) Để phân tích và diễn
giải dữ liệu thu thập được. Trong số những kỹ thuật đó, phân tích theo
chủ đề được coi là đơn giản nhất của những phân tích nội dung
(Mucchielli, 1996). Giai đoạn phân tích là khâu khó khăn nhất đối với
các nhà nghiên cứu sử dụng những câu chuyện đường đời nhằm phục vụ công
tác khoa học (Legrand, 1993). Phân tích các dữ liệu tiểu sử bao gồm ba
bước cần thiết để đơn giản hóa các văn bản với mục đích tạo ra một sự dễ
hiểu và, cuối cùng, cho phép giải thích (BLANCHET và Gotman, 1992):
•
Bước 1: Phân loại tương ứng với một phân tích mô tả, trong đó các nhà
nghiên cứu mã hoá văn bản dựa trên các mục tiêu của nghiên cứu, và phân
loại ý nghĩa (từ, chủ đề, đối tượng, nhân vật, sự kiện);
•
Bước 2: Suy diễn/ Suy luận là một lời giải thích từ những gì đã khiến
người kể nói ra (nguyên nhân - Kết quả, biểu thị tâm lý hay xã hội, tính
đại diện);
• Bước 3: Lý giải là bước nhấn mạnh tầm quan trọng về mặt ý nghĩa bên cạnh danh sách các đặc điểm của một văn bản đã tổng hợp.
Các
nghiên cứu từ câu chuyện đường đời là một sự nảy sinh của các câu
chuyện. Do đó, sẽ là hữu ích, thậm chí cần thiết, để tiến hành một phân
tích cắt ngang và/ Hoặc phân tích so sánh từ mỗi câu chuyện. Cách tiếp
cận này cho phép khắc phục thiếu sót của duy nhất một câu chuyện, trong
khi đặt câu chuyện này bên cạnh với những câu chuyện khác. Công việc này
có thể được tiến hành theo hai cách: Cách "chéo nhau" (đối chiếu thông
tin) Hoặc "tập hợp" (tổng hợp thông tin) Từ các câu chuyện (Rouleau,
2003). Cuối cùng, phân tích là để "nói chuyện" về câu chuyện dựa vào
những lời trích dẫn làm phong phú những lý giải.
Tóm
lại, câu chuyện đường đời cho phép thu thập thông tin vượt ra ngoài nội
dung của bài diễn văn. Nó có thể cho phép tự do ngôn luận và cho phép
đi đến những điều "không nói". Nó là một phương pháp thu thập thông tin
mà đặt vai trò lớn việc giải thích của nhà phân tích. Do đó, quan trọng
là phải luôn cảnh giác với những rủi ro của sàng lọc thông tin trong
giai đoại phân tích.
Tài liệu tham khảo
1.
T. Bah, 2010. La méthodologie des récits de vie au service de l’analyse
du processus de transmission des entreprises. Colloque GRH, PME et
Entrepreneuriat: Regards croisés 1er avril 2010, Montpellier, France.
2. L. Bardin, 1977. L'analyse de contenu, Paris, PUF.
3. D. Bertaux. 2005. L’enquête et ses méthodes. Le récit de vie. 2è édition. Armand Colin.
4. D. Demazière, C. Dubar. 1997. Analyser les entretiens biographiques: L’exemple de récits d’insertion, NATHAN.
5.
F. Ferrarotti. 1990. Histoire et histoires de vie: La méthode
biographique dans les sciences sociales, Librairie des Méridiens.
6. R. Ghiglione, J. L. Beauvois, C. Chabrol, A. Trognon. 1980. Manuel d’analyse de contenu, Armand Colin, Paris.
7. M. Legrand. 1993. L’approche biographique, Hommes et perspectives.
8. O. Lewis. 1963. Les enfants de Sanchez, Gallimard.
9. J. C. Kaufmann. 1996. L’entretien compréhensif. NATHAN.
10. P. Paillé, A. Mucchielli. 2008. L’analyse qualitative en sciences humaines et sociales, Armand Colin, Paris.
11. J. Poirier, S. C. Valladon, P. Rayb aut. 1983. Les récits de vie: Théorie et pratique. Presse universitaires de France.
12.
L. Rouleau. 2003. "La méthode biographique", in Giordano, Y. (Coord.),
Conduire un projet de recherche. Une perspective qualitative, Editions
EMS, Chapitre 4, p. 133 - 171.
13. P. Ricoeur. 2006, Temps et récit: L’intrigue et le récit historique. Seuil.
14.
W. I. Thomas & F. Znaniecki. 1998. Le paysanb polonaise en Europe
et en Amérique, Récit de vie d’un migrant. Préface de Pierre Tripier,
Une sociologie pragmatique. NATHAN.
[1]NCS, Trường Kinh tế, Tổ chức và Xã hội, Đại học Paris X, CH Pháp. Giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội, Việt Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét