mốt mới, du nhập lý thuyết văn học để "trang sức"
Tiếp
nhận lý thuyết văn học nước ngoài luôn có ý nghĩa quan trọng đối với
việc xây dựng nền lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học của mọi quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, sau hơn một thế kỷ du nhập và áp
dụng các lý thuyết phương Tây trong nghiên cứu, phê bình văn học, dường
như tới nay, một số tác giả ở Việt Nam vẫn thực hành công việc theo lối
"ăn xổi ở thì"?
Vận
dụng một lý thuyết văn học từ phương Tây để nghiên cứu, phê bình văn
học Việt Nam là hết sức cần thiết, song khi việc vận dụng trở thành
"mốt" của một số tác giả nghiên cứu, phê bình lại nảy sinh một số hiện
tượng "ngược đời", không biểu thị cho sự say mê, trăn trở nghề nghiệp mà
cốt tạo tiếng vang? Bởi, thay vì tìm hiểu kỹ càng, có hệ thống, tiếp
nhận trong sự phù hợp với thực tiễn văn học và động lực nội tại chi phối
văn học ở trong nước, thì các tác giả này như đã bị "ngợp" trong lý
thuyết mà họ cho là thích hợp. Và có lẽ vì không cần xem xét xuất xứ,
bản chất lý thuyết đó là gì, họ lựa chọn cả một số lý thuyết phi chính
trị, phản khoa học làm phương pháp nghiên cứu.
Lại
có tác giả trong khoảng hai mươi năm trở lại đây đã khiến người quan
tâm phải kinh ngạc vì liên tục chuyển đổi từ thi pháp học, phân tâm học
đến phê bình phong cách! Với phương pháp nào ông cũng làm ra một, hai
công trình dày cộp nhưng đọc kỹ lại thấy dường như phương pháp nghiên
cứu nước ngoài chỉ là "đồ trang sức" để trưng ra với giới học thuật.
Công trình nào cũng có nhược điểm rất lớn là tác giả còn thiếu nền tảng
khi tiếp nhận các lý thuyết được lựa chọn, chưa đi sâu tìm hiểu rốt ráo
chủ thuyết mình theo đuổi. Kỳ lạ là lối làm việc thiếu khoa học đó lại
chưa một lần được xem xét cẩn trọng mà trái lại, tác giả từng dính án
"đạo văn" này vẫn được một số cây bút lý luận, phê bình khen ngợi, coi
như một tấm gương về nỗ lực nghiên cứu!?
Gần
đây một cây bút phê bình trẻ xuất bản cuốn sách trong đó nhìn nhận văn
học đương đại là "nền văn học đang chuyển đổi và phân hóa từ những không
gian đối diện với sự chuyển hóa và phân hóa". Cây bút phê bình trẻ
tuyên bố vận dụng trong sách (thực chất là tập tiểu luận) Nhiều phương
pháp khác nhau: Từ thi pháp học, cấu trúc luận, tự sự học, đến lý thuyết
chấn thương, lý thuyết hậu thực dân... Nếu tác giả thật sự nắm vững,
thành thạo việc áp dụng các lý thuyết trên để nghiên cứu thì quả là đáng
khâm phục. Nhưng khi đọc kỹ sẽ ngạc nhiên, vì các lý thuyết được áp
dụng rất mờ nhạt, các phương pháp nghiên cứu như cấu trúc luận, tự sự
học không được trình bày kỹ lưỡng, các biểu tượng về văn hóa, huyền
thoại không được chú trọng giải thích,...
Mà
lý thuyết hậu thực dân trở thành chủ thuyết xuyên suốt cả tập sách. Sự
xuyên suốt đó cho thấy tác giả không quan tâm tới các vấn đề: Thứ nhất,
đến nay hậu thực dân vẫn đang là lý thuyết còn gây tranh cãi. Ra đời
trong thời kỳ các nước thuộc thế giới thứ ba mới giành được độc lập, hậu
thực dân được một số nhà văn hóa ở phương Tây coi là giải pháp tối ưu
để hiểu bản chất các nước này. Ngược lại, một số ý kiến cho rằng lý
thuyết hậu thực dân chỉ khắc sâu thêm xung khắc văn hóa và phân biệt, kỳ
thị chủng tộc; Tạo ra cuộc chiến không có hồi kết giữa văn hóa phương
Tây với văn hóa bản địa (trung tâm - Ngoại vi); Không lý giải được những
giao thoa văn hóa tự nguyện giữa phương Ðông và phương Tây, hay mở rộng
ra là giữa các quốc gia với nhau.
Mặc
dù đã có một tên gọi, nhưng hậu thực dân vẫn chưa phải là lý thuyết
hoàn chỉnh, nhất là khi phải vay mượn nhiều diễn ngôn, lý thuyết khác
nhau để che đậy mục đích, bản chất. Vì vậy, lý thuyết nhiều mâu thuẫn và
cực đoan này nhanh chóng bị lu mờ khi lý thuyết toàn cầu hóa ra đời.
Thứ hai, không phải quốc gia nào từng bị đế quốc phương Tây đô hộ cũng
tồn tại những di sản hậu thực dân hay hậu thuộc địa, và Việt Nam không
phải gánh chịu các di sản này như ở một số quốc gia châu Á khác. Thứ ba,
có thể coi văn hóa của mỗi quốc gia và văn hóa của các quốc gia như
những dòng chảy xen kẽ với các khúc giao cắt, cho nên không có nền văn
hóa nào tĩnh tại, khép kín như trạng thái "tiền thực dân" mà lý thuyết
hậu thực dân ghi nhận ở các nước chủ nghĩa thực dân đã mất quyền kiểm
soát. Do đó, sử dụng lý thuyết hậu thực dân trong thực tiễn nghiên cứu
văn học Việt Nam là không khả thi, như nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra...
Nhận xét
Đăng nhận xét