Hiện tượng di cư ngôn ngữ ở nhà văn đương đại
Hơn
trăm năm qua, biến động chính trị quốc tế kéo theo chuyển di lớn về dân
cư, chủ yếu từ các nước thuộc thế giới thứ ba chuyển đến các nước phát
triển. Từ đó, ở Âu - Mỹ, nảy sinh luồng văn học di dân. Và từ cố quốc,
nó được đặt tên là văn học hải ngoại.
Nhà
văn rời bỏ quê hương cư trú đất nước khác luôn nuôi hy vọng trở lại cố
quốc khi thời cuộc thay đổi. Thường thì ở thế hệ thứ nhất, do còn vương
vấn với quê nhà hay chỉ thuần trở ngại về ngôn ngữ, nhà văn chỉ viết
bằng tiếng mẹ đẻ. Đối tượng tác phẩm họ nhắm đến luôn là bộ phận độc giả
di cư nhỏ bé và đồng bào còn "mắc kẹt" ở quê nhà. Nhà văn trở thành nhà
văn lưu đày, lưu đày trong ngôn ngữ và trong văn chương.
Thế
rồi khi tình trạng lưu vong kéo dài, thời cuộc đã không chuyển biến
theo ý nguyện thì nhà văn tự mình buộc phải thay đổi. Họ bắt đầu nghĩ
đến đối tượng độc giả nơi đất nước họ đang lưu dung, và thử ngòi bút
bằng ngôn ngữ mới. Đó là điều khó khăn. Sang thế hệ một rưỡi, người viết
có thể thoải mái hơn trong chọn lựa ngôn ngữ thể hiện: Hoặc bằng tiếng
mẹ đẻ hoặc bằng ngôn ngữ của nước sở tại (thường là tiếng Anh hay Pháp)
Hay cả hai. Đến thế hệ thứ hai trở đi, đại đa số nhà văn di cư viết bằng
ngôn ngữ văn học dòng chính. Ở đây xảy ra tình trạng di cư ngôn ngữ
hàng loạt.
I-
Da- Be- Lơ đơ Cuốc- Ti- Vrông (Isabelle de Courtivron) Viết trong "Sống
trong Dịch thuật: Nhà văn Song ngữ cùng Cá tính và Sáng tạo": Một cộng
đồng văn chương mới đã được hình thành và thúc đẩy, bằng sự "nhập cư,
công nghệ, chủ nghĩa hậu thực dân và toàn cầu hóa", các thế lực hùng
mạnh đã "xóa bỏ ranh giới và đẩy mạnh chuyển động đa văn hóa". Từ đây,
khái niệm văn học hải ngoại và văn học di dân đã biến mất. Thế hệ văn
học di dân với những tên tuổi lớn như G. Côngrát (Josept Conrad), T.
Man- Nơ (Thomas Mann), S. Bếch- Két (Samuel Beckett), V. Na- Bô- Kốp
(Vladimir Nabokov), Cao Hành Kiện.. . Nhường chỗ cho thế hệ mới, trẻ hơn
và quyết đoán hơn.
Thử
điểm danh vài tên tuổi nhà văn di cư ngôn ngữ đương đại. Nhà văn Bosnia
A. Hê- Môn (Aleksandar Hemon), bị mắc kẹt ở Chi- Ca- Gô (Chicago) Khi
chiến tranh nhấn chìm thành phố quê hương Xa- Ra- Ê- Vô (Sarajevo) Của
ông, đã tiếp cận với tiếng Anh ở tuổi 27. Vượt qua trở ngại ngôn ngữ,
hôm nay, tác giả của Câu hỏi của Brunovà Dự án Lazarusđược coi là một
phù thủy đầy phong cách, tự sáng tạo ra tiếng Anh cho chính mình. Yiyun
Li đến Hoa Kỳ với vốn tiếng Anh ít ỏi để nghiên cứu Miễn dịch học tại
Đại học Ai- Ô- Oa (Iowa), nhưng chỉ sau thời gian không dài, tác giả
cuốn tiểu thuyết thứ ba bằng tiếng Anh: Tốt hơn cả Cô đơnxuất bản vào
tháng 2- 2014 là nhà văn đương đại gốc Hoa được người Mỹ biết nhiều
nhất, có lẽ. Còn N. A- Xlam (Nadeem Aslam) - Tác giả của Khu vườn của
Người đàn ông mù lòa, người vật lộn với tiếng Anh khi gia đình ông di cư
sang Anh từ Pa- Ki- Xtan (Pakistan) Vì lý do chính trị lúc còn là một
thiếu niên. Ông nói: "Tiếng Anh đối với tôi là một thứ ngôn ngữ của hận
thù, đồng thời lại là một thứ ngôn ngữ của tình yêu" (Wiliiam Grime,
trong bài "Di cư ngôn ngữ ở nhà văn", The NewYork Times, 25- 4- 2014).
Thế
kỷ 20, Việt Nam hai lần làm di cư, lớn nhất và phức tạp nhất vẫn là từ
thời điểm sau khi đất nước thống nhất. Nhiều đợt di cư khác nhau với
nhiều tâm thế khác nhau của các bộ phận người khác nhau. Riêng văn giới,
nếu nhà văn thế hệ đầu tiên như: Nguyễn Mộng Giác, Tô Thùy Yên, Lữ
Quỳnh, Võ Phiến, Trần Hoài Thư, Trần Mộng Tú, Nguyễn Hưng Quốc... Chỉ
viết bằng tiếng mẹ đẻ, thì thế hệ sau đó đã khác đi rất nhiều. Họ có thể
sáng tác song ngữ, như Đinh Linh, Nguyễn Quí Đức, Đỗ Kh... Hoặc hoàn
toàn chuyển sang ngôn ngữ mới: Mộng Lan (tiếng Anh), Linda Lê (tiếng
Pháp)...
Có
thể kể vài tác giả đương đại gốc Việt thành công qua vài giải thưởng
quốc tế uy tín. Monique Trương sinh năm 1968 tại Sài Gòn, di cư qua Mỹ
cùng gia đình sau 1975, hiện sống tại Bru- Klin (Brooklyn) - New York.
The Book of Salt (Sách muối) Kể câu chuyện về một đầu bếp Việt Nam sau
những năm phục dịch ở Pa- Ri, phải quyết định ở lại (Pháp), đi (Mỹ) Hay
trở về Việt Nam. Tác phẩm giành Giải thưởng Barbara Gittings Book Award
in Literature của Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ và Giải PEN/ Robert W.
Bingham năm 2004.
We
Should Never Meet (Ta không bao giờ nên gặp nhau) Là tác phẩm đầu tay
của Aime Phan viết về những đứa trẻ Việt Nam được đáp máy bay qua Mỹ,
trong đó nhân vật Kim không hướng tâm là người cha Mỹ - Da trắng mà là
người mẹ Việt - Da vàng, một chọn lựa "đầy tai ương" (chữ dùng của
Nguyễn Hương). Tác phẩm đoạt giải Sách Quý của Kiryama Prizevề tiểu
thuyết đồng lúc vào chung khảo giải Văn chương Mỹ gốc Á năm 2005 (Asian
American Literary Awards). Aime Phan là nhà văn thuộc thế hệ thứ hai
sinh ra và lớn lên ở đất nước định cư, hiện ở quận Cam, Ca- Liphoóc- Ni-
A (Orange County, California) Nơi có nhiều người Việt sinh sống. Aime
Phan vừa ra tác phẩm thứ hai: The Reeducation of Cherry Truong (Sự cải
tạo của Chery Truong) Được xem là một "khám phá sâu sắc sự giao tiếp
giữa lịch sử và trái tim nhân bản".
Nam
Lê sinh ở Sài Gòn và lớn lên ở Men- Bơn, Ô- Xtrây- Li- A (Melbourne,
Australia), hai lần nhận Giải thưởng Văn học Anh Dylan Thomasdanh giá.
Lần thứ hai dành cho tập truyện ngắn gồm bảy truyện có tên The Boat (Con
Tàu). Lối kể chuyện của Nam Lê độc đáo đến nỗi Chủ tịch Ban giám khảo
P. Phlo- Ren- Xơ (Peter Florence) Nhận định: "Dưới con mắt của Ban giám
khảo, Nam Lê là một hiện tượng văn chương phi thường". Mới nhất, Uyên
Nicole Dương với cuốn tiểu thuyết đa văn hóa Mimi and Her Mirror (Mimi
và chiếc Gương) Do AmazonEncorexuất bản, đoạt giải nhất trong cuộc thi
Giải thưởng sách Quốc tế International Book Awards2012.
Uy-
Li- Am Grim (Wiliiam Grime) Thuật lại chuyện nhà văn Phran- Xexca Mác-
Xi- A- Nô (Francesca Marciano) Trong tiểu thuyết Một ngôn ngữ kháckể về
một thiếu nữ I- Ta- Li- A tên Em- Ma (Emma) Si tình tiếng Anh. Cô theo
dõi miệt mài các cuộc nói chuyện hằng ngày của người Mỹ, chăm chú lắng
nghe những đĩa nhạc của Giô- Ni Mít- Chen (Joni Mitchell). Và rồi không
bao lâu, tình yêu ngôn ngữ của cô gái được đền đáp: Cô thấy mình có thể
nói và hiểu được tiếng Anh một cách dễ dàng. Bị dịch chuyển, cô bước vào
một cuộc sống khác. "Chị không biết mình đã chối bỏ những gì", người kể
chuyện trong tác phẩm của Marrciano nhận xét, "nhưng một ngôn ngữ khác
chính là chiếc thuyền mà chị dùng để trốn chạy".
Ngôn
ngữ là ngôn ngữ của hận thù, của tình yêu hay chỉ là một phương tiện
trốn chạy... , không vấn đề gì cả. Bởi dẫu sao không phải tất cả nhà văn
di cư đều bị cuốn hút về phía "trung tâm" - Chỉ sử dụng ngôn ngữ có tầm
phổ quát rộng trên thế giới để viết văn, làm thơ, mà có khi ngược lại.
Nếu thuận trước hết viết bằng tiếng Việt, sau đó tự chuyển dịch tác phẩm
mình ra tiếng Pháp mà theo chị, dịch là một cách sáng tạo lại - Nhất là
dịch chính tác phẩm của mình, thì không ít nhà văn Việt Nam di cư thuộc
thế hệ một rưỡi và thế hệ tiếp sau đó vẫn kiên trì sáng tác và thành
công bằng tiếng Việt: Nguyễn Hoàng Tranh, Lưu Diệu Vân, Phan Quỳnh
Trâm... Là rất điển hình. Rồi ngay cả người đã thành công trong sáng tác
tiếng Anh như một Uyên Nicole Dương cũng đang có hướng quay trở lại
viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Ở
phạm vi hẹp hơn, các nhà văn dân tộc thiểu số ở Việt Nam chẳng hạn.
Việt Nam có 54 dân tộc thiểu số anh em, các cây bút người dân tộc vẫn có
thể viết bằng tiếng mẹ đẻ, thế nhưng chính tiếng Việt mới là phương
tiện họ đã thể hiện trọn vẹn nhất tài năng. Bởi đó là tiếng phổ thông,
đối tượng độc giả là các dân tộc trên đất nước Việt Nam đồng thời là
chính dân tộc mình. Ngoài dân tộc Chăm có đặc san riêng là Tagalau, để
những Jaya Hamu Tanran, Phú Đạm, Jaya Thuksiam, Kiều Dung... Có thể sáng
tác bằng tiếng Chăm mà vẫn tìm được độc giả của mình, dù số lượng còn
rất hạn chế, các nhà văn dân tộc thiểu số khác, hoặc viết song ngữ, hoặc
sáng tác thẳng bằng tiếng Việt.
Sáng
tác song ngữ có thể kể: Nông Quốc Chấn (dân tộc Tày), Dương Thuấn
(Tày), Lò Ngân Sủn (Giáy), Inrasara (Chăm)... Còn đại bộ phận viết bằng
tiếng Việt. Pờ Sảo Mìn (Padí), Mai Liễu, Lương Định (Tày), Hơvê
(H'rê)... Thể loại thơ là thế, chứ văn xuôi mãi đến hôm nay vẫn chưa có
nhà văn dân tộc thiểu số nào sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết bằng
tiếng mẹ đẻ.
Thế
giới phẳng, toàn cầu hóa, trào lưu hậu hiện đại giải lãnh thổ hóa... Mở
ra vô vàn cánh cửa cho nhà văn hôm nay thoải mái và vô ngại trong chọn
lựa để di cư ngôn ngữ. Từ đó họ có thể tuyên bố cả quyết như Đinh Linh
rằng: "Thật sự thì tôi là hai nhà văn, một Mỹ, một Việt. Tôi viết bằng
tiếng Việt vì tôi gắn bó với số mệnh của nước Việt. Tôi viết bằng tiếng
Anh vì tôi gắn bó với số mệnh của nước Mỹ" (Nguyễn Hương, "Văn Chương Di
Dân Việt tại Hoa Kỳ").
INRASARA (Theo ND)
Nhận xét
Đăng nhận xét