CHÍNH SÁCH DI DÂN ĐI XÂY DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI Ở VIỆT NAM
Đặng Nguyên Anh
Di
dân là một quy luật khách quan, phản ánh đòi hỏi phát triển của mọi
quốc gia. Di dân góp phần phân bố lại dân cư, đồng thời thúc đẩy phát
triển kinh tế - Xã hội giữa các vùng miền trong cả nước. Di dân đi xây
dựng các vùng kinh tế mới ở Việt Nam góp phần phân bố và sử dụng hợp lý
các nguồn lực sức lao động và tài nguyên nhằm phục vụ cho phát triển
kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Di dân kinh tế mới còn là một trong nhiều
chủ trương lớn nhằm phát triển kinh tế - Xã hội gắn với mục tiêu bảo vệ
an ninh và quốc phòng.
Di
dân ở Việt Nam diễn ra từ lâu trong lịch sử, gắn liền với lịch sử dựng
nước và giữ nước. Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp và
miền Bắc được giải phóng (1954), nghị quyết Trung ương V (tháng 7/1961)
Về phát triển nông nghiệp nhằm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
1961 - 1965 đã chủ trương đưa đồng bào miền xuôi lên khai hoang miền
núi. Cũng trong năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào
miền xuôi đi xây dựng và phát triển kinh tế - Văn hoá miền núi.
Đây
được coi là sự mở đầu lịch sử cho công cuộc di dân khai hoang và xây
dựng các vùng kinh tế mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Kể từ đó đến nay, phân bố dân cư và lao động luôn được khẳng định
trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam cũng như
trong quyết sách lớn của Chính phủ.
I. Di dân kinh tế mới ở Việt Nam
Trải
qua các thời kỳ khác nhau, công tác di dân tuy có những thay đổi về tổ
chức, cơ chế chính sách, địa bàn và đối tượng thực hiện song kết quả thu
được đã đóng góp rất lớn vào mục tiêu phát triển kinh tế, giải quyết
các vấn đề xã hội, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam. Nhìn lại sự phát triển của chương trình, có thể chia quá
trình di dân kinh tế mới thành bốn giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1961 – 1975
Đây
là những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Miền Bắc tiếp tục phong
trào hợp tác hoá phát triển sản xuất nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu của
tiền tuyến. Chương trình vận động đưa dân lên khai hoang ở miền núi
trong giai đoạn này nhằm mục đích mở rộng diện tích canh tác, tăng sản
lượng lương thực để giải quyết đời sống nhân dân và phục vụ tiền tuyến.
Trong thời kỳ này, hướng di dân chủ yếu từ khu vực đồng bằng sông Hồng
lên các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoàng Liên
Sơn, Bắc Thái, Hoà Bình,.. .). Chính sách di dân trong thời kỳ này chủ
yếu là vận động quần chúng kết hợp với hình thức tổ chức hợp tác xã để
vận động đồng bào miền xuôi lên khai hoang miền núi.
Kết
quả trong 15 năm thực hiện, đã đưa được 1.050.000 người và thành lập
được hàng trăm hợp tác xã, nhiều nông - Lâm trường quốc doanh mới. Diện
tích khai hoang đưa vào sản xuất đạt khoảng 500.000 ha trong thời kỳ
này. Tuy nhiên, do công tác tổ chức chuẩn bị cho đời sống chưa tốt, số
người đi kinh tế mới bỏ về quê cũ khoảng 12% (Đỗ Văn Hoà, 1999), cho
thấy những hạn chế nhất định của chính sách di dân trong thời kỳ này.
Giai đoạn 1976 – 1985
Đây
là thời kỳ đất nước thống nhất, song Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn do
tiếp tục theo đuổi cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp. Sản xuất
nông nghiệp chậm phát triển, lương thực không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu
dùng trong nước, một số tỉnh miền Bắc đứng trước nguy cơ đói kém mỗi khi
mất mùa. Trong khi đó ở miền Nam, diện tích đất hoang hoá chưa sử dụng
còn nhiều, tiềm năng sản xuất lúa khá lớn nên đòi hỏi việc điều động lao
động, phân bổ lại dân cư nhằm đẩy nhanh tốc độ khai hoang tăng cường
diện tích nông nghiệp và sản lượng lương thực. Công tác di dân ở thời kỳ
này được hết sức chú trọng và tiến hành với quy mô lớn trên phạm vi cả
nước. Các luồng di dân kinh tế mới tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông
Cửu Long, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Trong thời kỳ này, các thành
phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh
tiếp tục thực hiện chính sách hạn chế nhập cư, các đô thị đã điều chuyển
một bộ phận dân cư vào các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam bộ định cư, lập
nghiệp theo chương trình di dân kinh tế mới.
Nhà
nước đã thành lập Tổng cục Khai hoang để giúp Hội đồng Chính phủ trong
công tác tổ chức quản lý và chỉ đạo thực hiện di dân kinh tế mới. Đến
giữa năm 1981, Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo phân bổ lao động và
dân cư Trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ (theo Quyết định số 226-
CP ngày 01/06/1981). Đồng thời Chính phủ cũng giao nhiệm vụ tổ chức
điều động lao động dân cư trên địa bàn cả nước cho Bộ Lao động (Quyết
định số 217/ CP ngày 29/5/ 1981). Kể từ đó hệ thống cơ quan tổ chức điều
động lao động dân cư đã được hình thành từ trung ương xuống địa phương.
Nhằm thúc đẩy di dân xây dựng các vùng kinh tế mới, trong thời kỳ này
đã có ba quyết sách lớn được ban hành là: Quyết định của Hội đồng Chính
phủ số 95- CP ngày 27/3/ 1980 về chính sách xây dựng vùng kinh tế mới;
Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 254- CP, ngày 16/6/ 1981 về khuyến
khích khai hoang phục hoá; Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ số 82- CP,
ngày 12/3/ 1980 về điều động và tuyển dụng lao động vào làm việc tại
nông trường, lâm trường quốc doanh tại các vùng kinh tế mới.
Công
tác di dân trong giai đoạn này đã đạt được những kết quả to lớn, đã
thực hiện điều chuyển được trên 1.365.000 lao động và 2.760.000 khẩu,
trong đó di chuyển ngoại tỉnh là 768.770 lao động và 1.387.820 khẩu.
Trong thời kỳ này, chính sách đưa lao động đến các vùng còn nhiều đất
hoang để xây dựng các nông, lâm trường quốc doanh mới hoặc bổ sung lực
lượng lao động cho các nông, lâm trường đã có được khuyến khích đẩy
mạnh. Kết quả là đã khai hoang đưa vào sản xuất 796.590 ha, trong đó chỉ
riêng các khu kinh tế mới phía Nam đạt 606.792 ha (trên 70%). Bên cạnh
những hợp tác xã, tập đoàn sản xuất mới còn có nhiều nông - Lâm trường
được hình thành thông qua công tác di dân có tổ chức trong thời kỳ này.
Có thể nói, đây là những năm diễn ra mạnh mẽ các hoạt động di dân xây
dựng kinh tế mới trên phạm vi toàn quốc. Vùng Kinh tế mới huyện Lâm Hà
(Lâm Đồng) Là một ví dụ cho sự khởi đầu của di dân kinh tế mới trong
giai đoạn này, từ đó đến nay Lâm Hà đã phát triển thành vùng dân cư trù
phú ở Tây Nguyên.
Nhận xét
Đăng nhận xét