TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG THƠ NÔM LÊ THÁNH TÔNG
Phê Bình Văn Học: TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG THƠ NÔM LÊ THÁNH TÔNG
1. MỞ ĐẦU
Trong
lịch sử các triều đại phong kiến tự chủ Việt Nam, Lê Thánh Tông được
các học giả thời nay đánh giá là “Nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa
lỗi lạc, nhà thơ lớn” (1) của dân tộc. Xét riêng trên lĩnh vực văn học,
Lê Thánh Tông là người chủ xướng thành lập Hội Tao đàn – Hội thơ ca cung
đình tiên trong lịch sử văn học – Để khích lệ sáng tác và bình phẩm văn
chương, nhất là văn chương bằng chữ Nôm, trong đó có Hồng Đức quốc âm
thi tập (HĐQÂTT) – Tập thơ Nôm thứ hai của dòng thơ tiếng Việt thời
trung đại, sau Quốc âm thi tập (QÂTT) của Nguyễn Trãi.
Nghiên
cứu HĐQÂTT, xét trên phương diện nội dung phản ánh, chúng ta thấy:
Khuynh hướng cảm xúc của Lê Thánh Tông và các thi nhân thời Hồng Đức
được xuất phát từ những yêu cầu của thời đại, của truyền thống dân tộc
và cả những yếu tố tích cực tiếp thu từ hệ tư tưởng Nho giáo, trong đó
có tư tưởng “thân dân”. Đây là những thành tựu và đóng góp quan trọng
của văn học nửa sau thế kỷ XV nói chung, của Lê Thánh Tông nói riêng
trong tiến trình nền văn học dân tộc.
2. NỘI DUNG
2.1. Khái luận về tư tưởng “thân dân”
“Thân
dân” là một khái niệm có nguồn gốc từ Nho giáo: “Đại học chi đạo, tại
minh minh đức, tại thân dân”. Theo nghĩa gốc của từ, “thân dân” có nghĩa
là gần dân. Ta có thể hiểu “thân dân” là quan tâm đời sống của dân,
hiểu dân cần gì, muốn gì. Cụ thể hơn, quan điểm “dĩ dân vi bản” (lấy dân
làm gốc) là dòng tư tưởng tiến bộ của Nho gia thời Xuân Thu – Chiến
Quốc (722 – 221 trước CN) của nước Trung Hoa cổ đại. Những đại biểu lỗi
lạc của dòng tư tưởng này là: Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử. Khổng Tử
dạy: “Dân vi bang bản, bản cố bang minh” (Dân là gốc nước, gốc có vững
thì nước mới yên). Vậy nên ông nhận thấy dù là chính thể nào, có là nhà
cầm quyền nào đi chăng nữa thì cũng luôn phải tuân theo và thực hiện tốt
ba chính sách là: “dưỡng dân”, “giáo dân”, “chính hình”. Rõ ràng đây là
quan niệm vừa có tính định hướng vừa có tính xác định những nghĩa vụ,
trách nhiệm của giai cấp thống trị với dân.
Mạnh
Tử – Người học trò xuất sắc của Khổng Tử tiếp tục kế thừa, phát triển
quan điểm của thầy mình về dân. Mạnh Tử đã nêu quan điểm hết sức mới mẻ,
tiến bộ, sâu sắc về dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Cũng có nghĩa: “dân” là quan trọng nhất trong các yếu tố “dân”, “nước”,
“vua”, vì dân là gốc nước, có dân mới có nước, có nước thì mới lập nên
vua. Đến Tuân Tử thì tư tưởng về dân lại được diễn tả cụ thể và sâu sắc
hơn nữa: “Quân chu dân thủy” (Vua là thuyền, dân là nước); nước chở
thuyền, nước cũng lật thuyền. Về mặt tư tưởng chính trị của Tuân Tử, một
mặt là thừa kế chủ thuyết của Khổng – Mạnh, mặt khác là thuộc về sáng
kiến riêng của ông. Sách “Tuân Tử” có rất nhiều chỗ nói về “quý dân” tựu
trung có ba điểm chính: Một là, thương dân nước sẽ mạnh, như câu: “Ái
dân giả cường, bất ái dân giả nhược” (Kẻ thương dân thì mạnh, kẻ không
thương dân là yếu); hai là, thương dân thì chúa sẽ an vị: “Quân giả chu
giã, thứ nhân giả thủy giã, thủy tắc tải chu, thủy tắc phúc chu, thử chi
vị giã. Cố quân nhân giả, dục an, tắc mạc nhược bình chính ái dân dĩ”
(Vua ví như thuyền; dân ví như nước; nước chở được thuyền thì cũng lật
được thuyền. Cho nên kẻ nắm quyền cai trị nếu muốn được an vị, thì chẳng
còn cách nào hay bằng, thực hiện chính trị hòa bình và biết thương
dân); ba là, lập luận dân quý vua khinh: “Thiên chi sinh dân, phi vi
quân giã; thiên chi lập quân, dĩ vi dân giã” (Trời sinh ra dân, chẳng
phải vì vua; trời lập ra vua ấy là vì dân). Điểm này hoàn toàn phù hợp
với lời “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử. Đây là
những hình ảnh sinh động về mối quan hệ quân – Dân. Do vậy, nhà cầm
quyền phải biết coi trọng dân, lấy nhân nghĩa mà trị thiên hạ thì yên,
lấy tàn bạo mà trị thiên hạ thì nguy.
Có
thể nói, trong quan niệm Nho giáo, tư tưởng về dân và chính sách “thân
dân” là một nguyên tắc quan trọng của đạo “an dân, trị quốc, bình thiên
hạ”. Các nhà tư tưởng Nho giáo coi việc quan tâm đến đời sống, nguyện
vọng của dân chúng là cơ sở để ổn định xã hội và xây dựng quốc gia thái
bình thịnh trị.
Tư
tưởng triết học Việt Nam mang xu hướng tiếp biến các tư tưởng triết học
du nhập bên ngoài kết hợp cùng xu hướng tự thân nội tại như điều kiện
địa lý – Xã hội, lối tư duy truyền thống nên dù tiếp nhận nền văn hóa
phương đông và phương tây nhưng cũng có chọn lọc và sáng tạo. Tư duy dân
tộc vẫn là cái khung với vai trò chủ thể tiếp nhận. Tư tưởng “thân dân”
vốn xuất phát từ quan điểm của Nho giáo được dân tộc ta tiếp nhận trong
quá trình tiếp thu, chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. “Thân dân” là
một tư tưởng chính trị – Xã hội được du nhập vào nước ta khá sớm, song
nó đã có độ “khúc xạ”, mang nội dung rất khác, đậm chất “Đại Việt”. Đặc
biệt, ở nửa sau thế kỷ XV thời Lê Thánh Tông, vai trò, vị trí “người
dân” được luật hoá trong Bộ luật Hồng Đức. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử,
nhà sử học Ngô Sĩ Liên tổng luận, triều đại Hồng Đức đã lấy “nghĩa” mà
duy trì, lấy “dân” để cố kết, lấy “trí” để trông coi, lấy “tín” để ngăn
phòng. Có đặt dân lên chốn chiếu êm mới làm cho thế nước vững như núi
Thái Sơn, bàn thạch; có chăm lo cho nước trở nên văn minh, dân đến chỗ
giàu thịnh mới là mưu hay trị dân, giữ nước. Đây cũng là một trong những
cơ sở tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng “thân dân” trong văn học thế
kỉ XV, đặc biệt là trong văn chương của Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông.
2.2. Tư tưởng “thân dân” trong thơ Nôm Lê Thánh Tông
-
Có thể khẳng định: “thân dân” là một trong những nguồn cảm xúc lớn
trong văn chương Lê Thánh Tông, đặc biệt là trong thơ Nôm. Người đọc bắt
gặp ở đó sự hòa điệu tuyệt vời giữa một bậc minh quân luôn quan tâm đến
dân đến nước và một thi nhân giàu xúc cảm trước đời sống của muôn dân.
Xưa nay rất hiếm có ông vua nào viết được những câu thơ đằm thắm và xúc
động lạ thường như thế này về dân trong những ngày đông rét buốt:
Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương,
Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường.
(Dệt cửi)
Những ngày hè oi ả:
Người nằm trướng vóc bồ hôi mướt,
Kẻ hái rau tần nước bọt se.
Nào khúc Nam huân sao biếng gảy
Chẳng thương bồ liễu phận le te…. http://ambn.vn/recruit/3733/tu-tuong-than-nhan-dan-trong-tho-nom-le-thanh-tong.html
Nhận xét
Đăng nhận xét