Phong cách phê bình văn học của Hoài Thanh
PGS. TS. ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG
“Mỗi người trong chúng ta, dù là con
người tầm thường nhất, cũng tượng trưng cho một toàn bộ khó quan niệm
những cố gắng của tự nhiên và của con người được theo đuổi không ngừng
qua nhiều triệu thế kỉ. Chỉ riêng điều này có lẽ đủ để làm cho chúng ta
xem xét tia lửa mà chúng ta mang trong người như là vô cùng quý giá và
cuộc sống như là một cái gì quan trọng nhất” Những dòng nhật ký ấy Hoài Thanh viết ở
Huế tháng 11/1934, khi Hoài Thanh còn rất trẻ và đi “tìm cái đẹp trong
nghệ thuật đã trở thành lí tưởng của cuộc đời ông. Trên hành trình một
đời văn, một đời người, với “tia lửa” của riêng mình, Hoài Thanh bao giờ
cũng thể hiện khát vọng yêu cuộc sống và con người với tất cả tấm lòng
chân thực nhất, những rung động tinh tế, sâu sắc, độc đáo nhất. Đấy là
cái “tạng” của Hoài Thanh, là phong cách Hoài Thanh.
Văn học cũng như phê bình văn học rất
cần sự đa dạng, độc đáo của những cá tính sáng tạo; nói cách khác, sự
tồn tại và phát triển của văn học, của phê bình văn học không thể tách
rời phong cách. Xét cho cùng, bất cứ nghệ sĩ sáng tạo văn chương nào
cũng có đặc điểm riêng của mình, nhưng phong cách thì không thể ai cũng
có. Phong cách – Đó là kết quả sáng tạo không mệt mỏi của mỗi nghệ sĩ và
“tương lai chỉ thuộc về những ai nắm được phong cách” (V. Hugo). Chính
Hoài Thanh có lần viết về phong cách trong phê bình văn học: “Chớ vội đi
tìm cái gọi là phong cách. Hãy cứ nghiên cứu thật sâu, thật kỹ, gắng
phát hiện những vấn đề ẩn khuất bằng cả tâm hồn và trí tuệ của mình, kỳ
thật chín. Sau đó hãy cầm bút. Và hãy cố biểu đạt sao cho chính xác
nhấtm gọn nhất ý tưởng của mình. Lúc này, phong cách tự nó sẽ đến. Không
phải mất công tìm kiếm gì cả. Bởi vì phong cách chính là tổng thể quá
trình sáng tác đó”. Thật đúng vậy, phong cách Hoài Thanh toát lên từ
toàn bộ cuộc đời và văn nghiệp của ông.
Từ đầu những năm ba mươi của thế kỉ
XX, tên tuổi Hoài Thanh bắt đầu được chú ý với cuộc tranh luận “nghệ
thuật vị nghệ thuật hay “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khởi nguồn sâu xa của
cuộc bút chiến này là việc phê bình tập truyện ngắn Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan. Đầu tháng 8/1935, trên Tiểu thuyết thứ bẩy số 62, Hải Triều có bài khen ý nghĩa xã hội của tập truyện trên. Ngay sau đó, trên báo Tràng An số ra ngày 15/8/1935, Hoài Thanh có bài Văn chương là văn chương phủ
nhận quan điểm của Hải Triều và đề cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Cuộc tranh luận kéo dài đến năm 1939 với hai phía của chiến tuyến: Một
bên cùng với Hải Triều là Hải Thanh, Hải Khách (Trần Huy Liệu), Hải Âu
(Trịnh Xuân An), Hồ Xanh, Lâm Mộng Quang, Phan Văn Hùm…; một bên cùng
với Hoài Thanh là Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Thiều Quang, Lê Quang
Lộc, Lan Khai… Phía Hoài Thanh bị “kết án” là thoát li, hình thức chủ
nghĩa, vị nghệ thuật. Sự thực, Hoài Thanh chỉ muốn nhấn mạnh đặc trưng
thẩm mỹ của văn chương, chứ ông không có ý phủ nhận ý nghĩa xã hội của
văn chương, trách nhiệm xã hội của người cầm bút; trên Tiểu thuyết thứ bẩy 23/5/1935,
Hoài Thanh khẳng định: “Văn chương có ảnh hưởng lớn vì văn chương hun
đúc tinh thần người đời. Văn chương không có quyền luôn luôn ở trên mấy
tầng mây cao thẳm, lãnh đạm ngắm những cảnh phong ba dữ dội ở đời” (Cần có một thứ văn chương mạnh mẽ hơn). Quan điểm ấy được Hoài Thanh phát triển sâu sắc hơn trong cuốn Văn chương và hành động (viết
năm 1936 với sự góp mặt của Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư). Cuốn sách
vừa ra đời đã bị thực dân thu hồi và cấm lưu hành (mãi đến năm 1998 mới
tìm lại được và ra mắt công chúng). ở cuốn sách ấy, một người “vị nghệ
thuật không thể có những dòng đầy nhiệt huyết như thế này: “Là một người
Việt Nam ở thời bây giờ trên vai ta mang nặng những trách nhiệm không
thể từ chối được… Trước tình hình như vậy, vòng tay đứng nhìn là một tội
ác… Chúng tôi nhận rằng nhà văn cũng phải hành động như mọi người: Hành
động bằng việc làm và hành động bằng ngòi bút”.
Năm 1942, Hoài Thanh và Hoài Chân viết Thi nhân Việt Nam,
cuốn sách để đời trong văn nghiệp Hoài Thanh, cuốn sách góp phần quyết
định tạo nên tên tuổi Hoài Thanh. Trong hàng trăm nhà thơ, hàng vạn bài
thơ, nhà phê bình đã chọn ra 46 nhà thơ,169 bài thơ tiêu biểu cho phong
trào Thơ Mới. Trần Mạnh Hảo viết một cách hình ảnh: “Thơ Mới khi ra đời
như kỳ hoa dị thảo mọc lên một cách hoang hóa từ khắp rừng núi, đồng
bằng, đô thị Việt Nam. Hoài Thanh và Hoài Chân đã mất nhiều công sức tìm
ra những tinh hoa, thâu tóm những loài hoa cỏ kỳ lạ điển hình nhất của
rừng hoang Thơ Mới, trồng vào khu rừng riêng có chọn lọc, rồi rào vườn
bách thảo thi ca lại đặng coi sóc, gìn giữ lưu lại cho hậu thế được thỏa
sức ngắm nhìn”( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Những bài thẩm bình của Hoài Thanh với từng nhà thơ thực sự là những bài thơ và bài tổng kết phong trào Thơ Mới mang tên Một thời đại trong thi ca thực sự là một bản trường ca, “khúc tuyệt xướng” về Thơ Mới. “Đọc Thi nhân Việt Nam,
trước hết ta gặp một nhà thơ ở giữa các nhà thơ” (Hoàng Trinh). “Nếu
các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới là Bá Nha thì họ đã có một Tử Kỳ
chính là Hoài Thanh” (Ngô Văn Phú). Hoài Thanh đã xây nên “lâu đài kiến
trúc hài hòa, đầy chất thơ” (Đỗ Đức Hiểu). Thi nhân Việt Nam là
“một công trình của thế kỉ” (Nguyễn Văn Hạnh). “Rồi người đời sẽ quên
dần và quên hết các chức tước, các trọng trách mà ông giữ, để chỉ còn và
còn mãi mãi tác giả Thi nhân Việt Nam (Phong Lê)( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Cuốn sách Nói chuyện thơ kháng chiến (1951)
tập hợp những bài nói chuyện về thơ của Hoài Thanh trước đông đảo công
chúng trên những nẻo đường đầy gian lao mà anh dũng của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Trước sau Hoài Thanh vẫn là một nhà nghệ sĩ dạt dào tình
cảm dân tộc, đồng bào và thiết tha yêu thương quê hương đất nước. Với sự
đồng cảm sâu xa, Hoài Thanh luôn khẳng định “nội dung của thơ ca kháng
chiến là tình yêu nước, và không có gì ngoài tình yêu nước, không có gì
ngoài những phương diện của tình yêu nước”, đồng thời Hoài Thanh cũng
nhiệt tình ủng hộ khuynh hướng đại chúng trong hình thức biểu hiện. Tiếp
tục duy trì những thao tác đã dùng khi viết Một thời đại trong thi ca,
nhà phê bình đã quan sát thơ kháng chiến từ nhiều bình diện: Cơ sở xã
hội, đội ngũ sáng tác, nội dung trữ tình, thể thơ… Trên cái nền hào hùng
của cuộc kháng chiến và không khí sôi nổi của phong trào sáng tác thơ
ca quần chúng, Hoài Thanh đã phác họa chân dung những con người mới của
một thời đại mới, nhân vật công nông binh, đồng thời ông chọn lọc và giới thiệu những bài thơ kháng chiến tiêu biểu: Viếng bạn (Hoàng Lộc), Nhớ (Hồng Nguyên), Bài ca vỡ đất (Hoàng Trung Thông), Người dân quân xã (Vĩnh Mai), Lượm, Lên Tây Bắc (Tố Hữu) v. V… Trong bản giao hưởng thơ ca kháng chiến, Nói chuyện thơ kháng chiến của Hoài Thanh đã là một nốt nhạc trong trẻo chan chứa niềm tự hào và tin yêu, tiếp thêm sức mạnh cho những người kháng chiến( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Hoài Thanh đặc biệt chú ý đến văn học trung đại. Năm 1943, một năm sau khi xuất bản Thi nhân Việt Nam, ông viết Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du – Từ Hải đăng trên báo Thanh Nghị; cũng năm đó, trên tờ Vì Chúa nguyệt san số 238, ông viết Một vài ý kiến về quyển “Nguyễn Du và Truyện Kiều” của ông Nguyễn Bách Khoa bác bỏ những quan điểm lệch lạc khi nghiên cứu Truyện Kiều.
Sau này, do yêu cầu nghiên cứu và giảng dạy, Hoài Thanh còn viết khá
nhiều bài về tác phẩm của Nguyễn Du, nhưng có lẽ bài viết hay nhất của
ông về Truyện Kiều là Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (1949). Viết về Truyện Kiều,
“văn phong và ngôn từ của Hoài Thanh, chủ yếu do khả năng cảm thụ tinh
tế, sâu sắc của tác giả, có phần gần gũi và kế thừa ngôn từ văn phong
của Mộng Liên Đường chủ nhân, của Thập Thanh Thị, của Chu Mạnh Trinh –
những nhà thẩm bình Truyện Kiều kiệt xuất – Đồng thời vẫn có
một nét duyên dáng, độc đáo riêng biệt mà theo ý chúng tôi, trước hết là
giá trị gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng đối với người đọc (Đặng
Thanh Lê). Hoài Thanh còn viết về Bình ngô đại cáo và thơ Nôm của Nguyễn Trãi, về Phan Trần, Hoa Tiên, Chinh phụ ngâm,
về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu v. V… Hoài Thanh đã làm được điều mà nhiều
nhà nghiên cứu khác không làm nổi, là làm sống lại những tác phẩm thời
quá khứ, khiến cho “những bông hoa, kể cả những loại không phải là hoa
khôi, đã trải qua hàng trăm năm sương giá trở thành thắm tươi hơn, có
khi còn thắm tươi hơn ngày mới nở” (Trương Chính)( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Nhưng văn học hiện đại mới là mối
quan tâm hàng đầu và thường xuyên của Hoài Thanh. Các tác gia lớn trong
văn chương dân tộc được Hoài Thanh đặc biệt ưu ái. ở văn học cận đại
Việt Nam, những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Hoài Thanh chú ý tới
Phan Bội Châu; còn bây giờ, ở văn học hiện đại Việt Nam, Hoài Thanh chú ý
tới Hồ Chí Minh và Tố Hữu với tư cách là hai nhà thơ cách mạng hàng đầu
mà tác phẩm của họ có sức động viên rất lớn với quần chúng nhân dân.
Hoài Thanh luôn có ý thức “học tập Bác qua thơ Bác”; bằng cảm quan nhạy
bén, linh khiếu thẩm bình văn chương tinh tế, sắc sảo, từ vẻ đẹp của thơ
Bác, Hoài Thanh đi sâu khám phá vẻ đẹp nhân cách Hồ Chí Minh. Hoài
Thanh luôn theo sát các chặng đường thơ Tố Hữu, nhất là từ tập Việt Bắc trở
đi, nhà phê bình thường xuyên có những phát hiện mới về thơ Tố Hữu ở
cấp độ chi tiết nghệ thuật; chẳng hạn, Hoài Thanh nhận ra “giọng thơ tâm
tình” trong Nước non ngàn dặm: “Bài thơ dài trên ba trăm câu
mà gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung. Bài thơ ngọt lịm, đúng là
một tiếng ru. Một tiếng ru day dứt không thôi. Bởi ru đây không phải là
ru để ngủ, để quên, mà để đừng quên”( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Hoài Thanh viết về Hòn Đất
của Anh Đức, về thơ của Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy,
Lưu Quang Vũ, Cảnh Trà v. V… Cũng như với các nhà thơ mới trước kia,
Hoài Thanh rất trân trọng các nhà thơ trẻ của thời đại cách mạng, “Con
mắt xanh” của nhà phê bình tài hoa đã làm chất kim cương trong thơ họ
lấp lánh tỏa sáng, nói như Chế Lan Viên: “Cái hay của Hoài Thanh là sau
việc đánh giá cao Thơ Mới như vậy, anh lại góp phần vào việc làm ra một
nền thơ cách mạng cao hơn, mới hơn, mới hơn về nội dung cách mạng”.
Không những thế, Hoài Thanh đã bắt đầu tập hợp tư liệu để viết một bài
tổng kết về thơ ca hiện đại kiểu Một thời đại trong thi ca; tiếc là ông đã ra đi quá sớm, không kịp thực hiện dự định cao đẹp ấy của đời ông .Một đời cầm bút và sáng tạo, Hoài Thanh
đã để lại trong văn chương dấu ấn thật khó phai mờ. Dấu ấn độc đáo đó
thể hiện trong quan niệm nghệ thuật, phương pháp phê bình, tính cách phê
bình của Hoài Thanh.
Hoài Thanh luôn trân trọng, mến yêu
cuộc sống và càng yêu cuộc sống, yêu con người, Hoài Thanh càng say mê
văn chương vì văn chương làm cho người ta thêm quý yêu cuộc sống và con
người. “Ông Hoài Thanh đã quan niệm Thơ không chỉ vì Thơ mà trước hết
còn vì cuộc sống, vì con người. ở đây, tình yêu thơ cũng là tình yêu con
người với mọi góc cạnh lung linh của tâm hồn, là tình yêu cuộc sống với
đầy đủ những vui buồn…” (Chu Hảo). Say mê văn chương, Hoài Thanh đề
cao, khẳng định giá trị đích thực của văn chương là ở phẩm chất nghệ
thuật của nó, ở bản chất của nó, đó là cái đẹp, nhà văn Nga K. Pautôpxki
có câu nói nổi tiếng: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của
người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp” – phải chăng “cái đẹp” ấy là vẻ
đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp của tâm hồn, là cái đẹp ở nội dung miêu tả,
cái đẹp ở phương thức biểu hiện của tác phẩm? Đức Năng, người con thứ
hai của Hoài Thanh, tưởng nhớ người cha kính yêu của mình “cả một đời
hướng tâm vì cái đẹp: Cái đẹp của cuộc sống và cái đẹp của nghệ thuật”.
Văn Giá nhấn mạnh: “Hoài Thanh trước sau vẫn nhất quán trong một bản
chất thi sĩ đích thựcmột: Say mê đi tìm cái đẹp và “sùng bái” cái đẹp
(chữ dùng của cụ Đặng Thai Mai)…” Với Hoài Thanh, chính cái đẹp mới làm
nên phẩm chất văn chương. “Đặc sắc mỗi nhà thơ chỉ trong những bài thơ
hay”. “Thơ chưa hay thì có cũng bằng không có”. Nhưng cái đẹp, cái hay
của văn chương phải mang bản sắc riêng biệt, độc đáo. “Một truyện ngắn,
một bài văn phê bình, hay một bài văn nào khác, đều cần phải có cái đặc sắc của nó” (Phê bình văn – Tiểu thuyết thứ bẩy,14/9/1935).
Văn chương là sản phẩm tinh thần của con người, một sản phẩm đặc thù
mang dấu ấn độc đáo của cá tính sáng tạo. “Nhà văn không có phép thần
thông để vượt ra ngoài thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt
nhà văn phải có một hình sắc riêng” (Ngoại cảnh trong văn chương – Tràng An,10/12/1935).
Hoài Thanh còn chỉ rõ cội nguồn mọi sáng tạo độc đáo là ở tài năng,
nhân cách của người nghệ sĩ. Cái tài phải đi với cái tâm, một cái tâm
trong sáng, thành thật. Trong bài Nhỏ to viết cuối sách Thi nhân Việt Nam,
Hoài Thanh tâm sự với bạn cùng nghề văn: “Danh vọng quý thật, nhưng còn
có điều quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy: Lòng ngay thẳng mà ít nhất
cũng phải giữ trọn trọng văn chương”. Sống thành thực, viết thành thực
là một tư tưởng nhất quán trong toàn bộ cuộc đời Hoài Thanh, ông chỉ
viết những điều mình xúc động, cảm nghĩ thực sự, không vay mượn của ai,
không nói những điều trái với rung cảm của lòng mình. Thật chẳng phải
ngẫu nhiên Ngô Tất Tố viết ở đầu cuốn Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim (1938): “Tặng Hoài Thanh Nguyễn Đức Nguyên, một người trong sạch, thành thật và có nghị lực trong lớp thanh niên ngày nay”( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Quan niệm nghệ thuật của Hoài Thanh
là cơ sở cho phương pháp phê bình văn học của ông. Yêu cái đẹp, Hoài
Thanh chỉ chọn cái đẹp, cái hay trong văn chương để bình, chứ không phê,
và bình bằng cả tâm hồn mình, bằng cả con người văn hóa của mình. “Nếu
gọi bằng nghiệp thì bình thơ vẫn là cái nghiệp rất
vui. Còn gì vui bằng cùng với ý đẹp, lời đẹp và nhạc điệu, âm thanh đi
vào những tâm hồn trong sáng, đi vào những nơi trong sáng nhất của tâm
hồn. Khó có những chuyến đi nào say người hơn”. Với Hoài Thanh, phê bình
văn học đã là một niềm đam mê lớn, phê bình cũng là văn chương, ông đã
nâng công việc bình thơ, bình văn lên thành một nghệ thuật, nó đòi hỏi
nhà phê bình phải viết cho hay, cho hấp dẫn, phải có những sáng tạo mới
mẻ. “Phê bình một quyển sách phải nói cho đúng đã đành, mà lại cần phải
nói cho hay nữa, làm thế nào cho câu nói của mình có đặc sắc. Đối với
một quyển sách, mình có ý kiến gì là lạ, mới nên hạ bút phê bình, không
thì thôi. Phê bình cũng cần phải có sáng tạo là thế”. Hoài Thanh phát
hiện cái đẹp, cái hay, cái mới, cái lạ trong văn chương bằng ấn tượng
trực cảm, sự đồng điệu của tâm hồn, “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.
“Mỗi người có một cái “tạng” riêng, “tạng” của Hoài Thanh trong phê bình
là trực giác, ấn tượng. Ông rất tự tin vào cảm xúc tự nhiên của mình,
và thường là ông đúng” (Phạm Xuân Nguyên). “Lối phê bình của Hoài Thanh
là đi trực tiếp đến cái thần của sự vật, gợi lên cái tứ của bài thơ; nó
gần với sáng tác mà xa với khoa học ở cách làm, nhưng vẫn đạt đến ý
nghĩa khoa học vì nó cũng phát hiện ra chân lí” (Nguyễn Thị Thanh Xuân).
Nhưng phương pháp phê bình văn học
của Hoài Thanh không đơn thuần là phê bình ấn tượng mà còn là so sánh,
xã hội học, hiện tượng học, tiếp cận văn hóa – lịch sử… Khi bình thơ văn
cổ điển, “với tinh thần biểu dương cổ vũ, gạn đục khơi trong, kế thừa
di sản, Hoài Thanh đã vận dụng sở trường bình thơ kiểu thi thoại
của ông để chỉ ra những bài thơ hay, câu thơ hay, hình ảnh hay một cách
xác đáng” (Trần Đình Sử). Để nhận diện chân dung tâm hồn các nhà thơ
mới, Hoài Thanh dùng phương thức so sánh ở cấp độ tác giả:
“Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê… Anh Thơ là
một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần
Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính… Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ”.
Hoài Thanh luôn thực hiện phân tích tác phẩm gắn với đặc trưng thể loại, phong cách, thi pháp: Với những tác phẩm truyện như Truyện Kiều, Hoa Tiên, Phan Trần… Hoài Thanh chú ý khám phá thế giới nhân vật (Thúy Kiều, Từ Hải, Dao Tiên, Lương Sinh, Kiều Liên, Phan Sinh…); với các tác phẩm thơ trữ tình như Nhật ký trong tù, Hoài Thanh ít nói tới sự kiện mà quan tâm nhiều đến thế giới tâm tư tình cảm
của nhà thơ: “Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc, ánh sáng vẫn ngời
lên, ánh sáng của một tấm lòng thương người và yêu mến đời vô hạn”( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Có thể nói, phương pháp phê bình văn
học của Hoài Thanh rất linh hoạt, uyển chuyển, “ông vừa tiếp nối cung
cách bình thơ của các thi nhân – hiền giả trong truyền thống văn hiến
của cha ông, vừa kết hợp và ẩn chứa trong lời bình cái quan niệm bản
chất thơ ca của nhiều xu hướng văn chương tiến bộ, trong lúc tâm hồn ông
đã lộng gió phương Tây…” (Trường Lưu). Con người Hoài Thanh, tính cách
Hoài Thanh hiện rõ trên những trang văn. Nếu nghệ sĩ là người tôn thờ
cái đẹp, sáng tạo cái đẹp, giàu xúc cảm và có trí tưởng tượng bay bổng
thì Hoài Thanh là một nghệ sĩ đích thực trong phê bình, ông là nhà phê
bình – nghệ sĩ. Trong văn chương, tác phẩm hay chính là cái đẹp
và Hoài Thanh xác định cho mình nhiệm vụ là “bình thơ hay”, “bình cái
hay của thơ”. Tính cách nghệ sĩ của Hoài Thanh còn thể hiện rõ ở năng
lực đồng cảm, cảm thông với người sáng tác. “Nét đồng điệu của tâm hồn
là yếu tố tiên quyết giúp tác giả lắng lòng nghe thấy cái huyền diệu,
cái tinh tế trong những hồn thơ mong manh mà người khác không cảm thấy
được… Ông đã tạo ra một điệu văn, đúng hơn, một điệu thơ – Phê bình,
để dẫn ta vào một thế giới trong đó hồn ông và hồn thi nhân nhập hòa
làm một và được biểu hiện bằng những câu thơ linh diệu” (Thiếu Mai). “Kể
từ Thi nhân Việt Nam cho đến nay, Hoài Thanh vẫn là nhà phê bình có cách cảm thụ thơ tinh vi và sâu sắc.
Ông nhạy cảm và lại thận trọng: Ông
thường tìm được những điều chủ yếu nhất của bài thơ, thấy được cái hay
của câu chữ vần điệu và cũng thấy được cả cái ấp úng trong lòng tác giả
chưa giãi bày hết được lên thơ” (Vũ Quần Phương). ở người nghệ sĩ Hoài
Thanh, sự tinh tế, sâu sắc trong phong cách phê bình lại được chắp cánh
bởi tư duy hình tượng, bởi những liên tưởng sinh động. Có cảm giác trong
tay ông, cây đũa thần – phê bình chạm tới đâu là ở đấy tất cả sống dậy,
có hồn, khơi gợi tưởng tượng và cảm xúc. Một khái niệm trừu tượng như thơ ca,
dưới ngòi bút Hoài Thanh “thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi
mộng, mặt đất với các vì sao”. Đánh giá vị trí của Tản Đà trong tiến
trình thơ ca Việt Nam, Hoài Thanh khẳng định đó là “người đã dạo những
bản đàn mở đầu cho cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa”. Hoài Thanh hình
dung xã hội Truyện Kiều, “cái xã hội ghê tởm đó sống nhơ nhuốc dưới ngòi bút của Nguyễn Du với cái màu da nhờn nhợt của Tú Bà, cái bộ mặt mày râu nhẵn nhụi của Mã Giám Sinh, cái vẻ chải chuốt, dịu dàng của Sở Khanh, cái miệng thì xoen xoét của Bạc Bà, Bạc Hạnh”( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Nếu nhà lí luận thiên về phê bình lí
trí thì nhà nghệ sĩ thiên về phê bình tình cảm. Hoài Thanh là nhà phê
bình tình cảm. “Con người Hoài Thanh giản dị và giàu tình như thế nào
thì phong cách viết của anh như vậy (Vũ Đức Phúc). Cả cuộc đời đã theo
tiếng gọi của nghệ thuật, nhưng với Hoài Thanh, mọi cảm hứng sáng tạo
nghệ thuật đều chung một cội nguồn sâu xa là tình cảm. Phê bình không
phải là chuyện tỉa tót văn chương; sức nặng của lời phê bình trước hết
là ở giá trị chân lí – những chân lí của cuộc đời chứa đựng trong tác
phẩm phải thông qua cái tình của nhà phê bình mới đến được trái tim
người đọc. Chính Hoài Thanh đã viết: “Muốn phân tích văn thơ cho chính
xác không thể nào không cần đến ít nhiều rung cảm nghệ thuật. Nhưng rung
cảm nghệ thuật cũng là một thứ tình cảm, và rung cảm đúng hay sai
thường cũng là do những tình cảm chủ đạo trong đời sống mỗi chúng ta
quyết định”( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) .
Tình cảm luôn là nguồn lực lớn lao
chi phối ngòi bút Hoài Thanh. Nhà phê bình đã hướng tới nhiều thể loại
văn học (ca dao, truyện, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký v.v…) nhưng ông
dành nhiều công sức nhất (và cũng thành công nhất) ở công việc bình thơ,
vì thơ là tiếng nói của tình cảm, thơ diễn tả một cách chân thật và
rung động những tâm tư, tình cảm sâu sắc của con người. Là một nhà thơ
giữa các nhà thơ mới, Hoài Thanh không cần dùng một từ ngữ nào đặc tả
nỗi buồn hoài cổ trong thơ Huy Cận, vậy mà người đọc vẫn cảm nghe được
nỗi cô đơn, trống vắng đến lạnh người trong cái xa xôi vô tận của cõi
đời: “Nhưng con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch, tứ bề càng
vắng lặng mênh mông. Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn du đã có lần nhác
thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nghe trong
hồn hơi gió lạnh buốt từ vô cùng đưa đến. Một Pascal hay một Hugo trong
lúc đó sẽ rùng mình, sẽ hốt hoảng; với cái điềm đạm của người phương
Đông thời trước, Huy Cận chỉ lặng lẽ buồn”( http://ambn.vn/recruit/3731/phong-cach-phe-binh-van-hoc-cua-hoai-thanh.html ) . …
Nhận xét
Đăng nhận xét