Chuyển đến nội dung chính

ĐIỂM TIN GIÁO DỤC NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2015

ĐIỂM TIN GIÁO DỤC NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2015








Năm giáo dục đổi mới gặp… phản ứng:



Năm 2015 ghi dấu những thay đổi lớn của GD-ĐT nhưng đổi mới nào cũng vấp phải sự phản ứng, nghi ngại của dư luận, không phải vì sai lệch về hướng đi mà là do sự vội vàng, thiếu thuyết phục trong quá trình thực hiện.

Tuyển sinh năm 2015 “đi vào lịch sử”!

Đổi mới lớn nhất của ngành GD-ĐT năm 2015 phải kể đến là việc gộp kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH, CĐ thành một với tên gọi “kỳ thi THPT quốc gia”. Dù trước đó, khi Bộ GD-ĐT đưa ra các phương án tổ chức kỳ thi này, rất nhiều chuyên gia đã thể hiện ý kiến không đồng tình. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc họp bàn, Bộ vẫn quyết tâm tổ chức với những thay đổi liên tục về mặt kỹ thuật. Kỳ thi diễn ra khá suôn sẻ ở phần thi nhưng khâu xét tuyển lại xảy ra hàng loạt rắc rối, ảnh hưởng nặng nề đến thí sinh và các gia đình có con dự kỳ thi này. Thí sinh vất vả, chật vật từ khâu xem điểm thi cho đến khâu nộp hồ sơ đăng ký dự tuyển khi phải liên tục nộp hồ sơ vào rồi lại rút ra. Xét tuyển ĐH trước đây là việc giữa nhà trường và thí sinh thì năm 2015 phải thông qua Bộ với phần mềm tuyển sinh liên tục bị treo và quá tải, dẫn đến có người ví như “chơi chứng khoán”. Ngày chót của xét tuyển đợt 1 với quá nhiều chuyện bi hài, rắc rối và sự lo lắng đến cùng cực của thí sinh, phụ huynh và của chính các trường ĐH đã đi vào lịch sử tuyển sinh trong nền giáo dục nước ta. Kết thúc kỳ xét tuyển này, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận đã phải công khai nhận trách nhiệm vì chưa cân nhắc hết tính phức tạp và hiệu ứng ngược của các giải pháp được thiết kế để tạo điều kiện cho thí sinh.

Mang điều kiện cũ để thuyết phục cho cách làm mới!

Năm 2015, việc công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể dự kiến thực hiện từ năm 2018 đã ngay lập tức thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Dự thảo này được các chuyên gia đầu ngành nhận xét tích cực khi cho rằng nó đã tiếp cận và đi theo hướng mà các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đã và đang làm, với chủ trương đổi mới theo hướng dạy học tích hợp ở các cấp học dưới và phân hóa mạnh ở cấp THPT. Chương trình cũng được biên soạn theo hướng bài bản hơn khi có chương trình tổng thể rồi mới đến chương trình của từng môn học. Nhưng rồi, cùng với sự “sôi sục”  phản đối của Hội Khoa học lịch sử VN khi môn lịch sử trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể dự kiến tích hợp với môn địa lý để mang tên gọi mới: “khoa học xã hội”  và “công dân với Tổ quốc”  đã dấy lên lo ngại: Môn lịch sử bị khai tử, bị xóa sổ, bị coi nhẹ.. . Trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Bộ đã tỏ rõ sự phản ứng khá chậm trễ và những lý lẽ đưa ra để giải thích về phương pháp dạy học tích hợp - cách mà các nền giáo dục tiên tiến thực hiện từ lâu - chưa đủ để thuyết phục dư luận cả về mặt lý luận khoa học lẫn kinh nghiệm thực tiễn và điều kiện thực hiện của VN.

Hầu hết các ý kiến đều chất vấn lãnh đạo Bộ về tính khả thi cho một phương pháp rất mới mẻ đối với VN. Chuyên gia được đào tạo bài bản để xây dựng chương trình giáo dục không có; Đội ngũ giáo viên đang giảng dạy và sắp ra trường chưa được chuẩn bị; Làm thế nào để “tích” cho “hợp”  những nội dung kiến thức của từng môn học với nhau; Các trường có đủ điều kiện để cho học sinh thực sự được học tự chọn như dự thảo chương trình đưa ra hay không? .. Hàng loạt câu hỏi cụ thể được đặt ra, nhưng giải thích của Bộ lại khiến những người quan tâm mơ hồ vì biết rằng đổi mới sẽ được tiến hành trong khi những điều kiện đi kèm theo nó chưa thay đổi là mấy. Không chỉ chậm trong thay đổi về mặt chuyên môn, báo cáo của Bộ mới đây nhất cho biết vẫn đang phải khẩn trương thực hiện các bước để kịp tiến độ trong điều kiện kinh phí cho đề án còn chưa được cấp.

Bị động trong đổi mới.. .

Theo tiến sĩ Chu Cẩm Thơ, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, điều quan trọng nhất là làm sao cho xã hội không bị động trước các chính sách của giáo dục. Bà Thơ nói: “Tư duy không bị động trước chính sách là tư duy quan trọng đối với tri thức và những người hành động. Khi mình đón nhận chính sách một cách thụ động, mình sẽ cảm thấy bức bối. Nếu mình không bị động thì sẽ thay đổi trạng thái tiếp nhận và thay đổi cả công thức để mình thực hiện công việc vốn dĩ phụ thuộc vào sứ mệnh của mình”. Tuy nhiên, bà Thơ cũng chỉ ra thực tế cần thay đổi trong chính tâm lý của người thực thi các chính sách, đó là “trong thời gian qua, những cái gì có tính mới, thời sự thì mọi người có xu hướng chống lại hơn là tiếp cận nó”. Phó thủ tướng Vũ Đức Đam mới đây cũng yêu cầu Bộ: “Cần cải tiến cách lấy ý kiến, trong đó quan trọng là huy động các hội khoa học, các chuyên gia tham gia nghiên cứu, góp ý, phản biện thông qua các cơ chế có tính gắn kết trách nhiệm với đảm bảo điều kiện thực hiện. Đặc biệt cần trao đổi, làm rõ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để đi đến thống nhất giải pháp đúng đắn, có lợi nhất”.

Sẽ không xáo trộn nhiều trong kỳ thi năm 2016.. .

Dự kiến kỳ thi năm 2016 tiếp tục có những thay đổi và ngay từ cuối năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ hết sức cầu thị để tổ chức tốt kỳ thi này. Đến thời điểm này, một số hội nghị góp ý cho kỳ thi năm 2016 đã diễn ra. Do không muốn có một sự thay đổi đột ngột nào nữa về thi cử nên hầu hết các sở GD-ĐT, các trường ĐH chỉ tập trung góp ý vào khâu kỹ thuật trong tổ chức kỳ thi. Việc chia cụm thi để thí sinh không phải đi lại quá xa, nâng cấp, cải tiến phần mềm quản lý thi để việc xem điểm thi và quá trình xét tuyển không còn khiến hàng triệu người “đau tim”, “nghẹt thở”  như năm vừa qua.. . Là những đề xuất giản dị và khiêm tốn mà xã hội và các nhà trường “đặt hàng”  với Bộ cho kỳ thi của năm 2016. Trong cuộc họp Chính phủ ngày 28.12, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận khẳng định kỳ thi sẽ chỉ có một số thay đổi về mặt kỹ thuật, hoàn toàn không làm xáo trộn đến việc dạy và học của các nhà trường so với năm 2015. Dự kiến, trước tết Bộ sẽ “chốt” cách thức tổ chức kỳ thi THPT quốc gia 2016.

4 sự kiện gây tranh cãi.. .

1. Ồn ào nhất trong lĩnh vực giáo dục ĐH năm qua là quá trình xét tuyển vào các trường ĐH, trong đó cao trào là ngày nộp hồ sơ xét tuyển cuối cùng của đợt 1.

2. Hai trường ĐH Tôn Đức Thắng (TP. HCM), Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội lần lượt có những sự kiện ồn ào khắp dư luận cả nước. Trường ĐH Tôn Đức Thắng tự đưa ra các quy định về việc phong giáo sư, phó giáo sư trong phạm vi nội bộ mà không phụ thuộc vào danh sách được công nhận của Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước. Sự kiện gây tranh cãi không chỉ vì trường có làm sai luật hay không mà còn mở rộng vấn đề có nên thay đổi các quy định của nhà nước liên quan tới việc công nhận các chức danh này. Trong khi đó, Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội tạo nên sự ồn ào do quyết định của Bộ cho phép trường này được mở ngành y đa khoa, sau đó lại quyết định chưa cho trường tuyển sinh. Sở dĩ có 2 quyết định trái ngược nhau trong vòng một tháng là do khi dư luận phản ứng dữ dội về sự dễ dãi trong quản lý nhà nước về đào tạo ngành y, Chính phủ phải chỉ đạo Bộ xem xét lại các quy định liên quan.

3. Xếp hạng và phân tầng ĐH: Lần đầu tiên, Chính phủ ban hành một văn bản dưới luật (Nghị định 73/2015/NĐ-CP) Nhằm cụ thể hóa những quy định trong luật Giáo dục ĐH về phân tầng và xếp hạng ĐH. Theo nhiều chuyên gia, xếp hạng ĐH là động thái cần thiết trong tiến trình hội nhập quốc tế nhưng cơ quan quản lý nhà nước không nên hành chính hóa việc này. Hơn nữa, các quy định về phân tầng trong nghị định còn gây nhiều tranh cãi.

4. Quy mô trường ĐH không quá 15.000 sinh viên chính quy. Đây là một trong những nội dung của Thông tư 32 quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh của các trường ĐH. Nguyên nhân khiến nội dung này gây tranh cãi do trong thông tư, Bộ phải “thòng” thêm quy định các “trường hợp đặc biệt”  sẽ được xem xét.




Đổi mới từ trong nhà trường để không có lỗi với TPP:



Đó là định hướng của Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đông Phong, hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP. HCM chia sẻ trong buổi lễ khai giảng chương trình đạo tạo trình độ Tiến sĩ bằng Tiếng Anh (UEH. ISB. PhD) Sáng ngày 15.12 vừa qua.

Đừng chỉ đổ trách nhiệm trên vai sinh viên!

Việc Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế Đông Nam Á (AEC) Và hơn nữa là ký kết hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) Được các nhà kinh tế phân tích rất nhiều về cơ hội lẫn thách thức. Một trong số đó là nguồn nhân lực trong nước chưa đáp ứng đủ yêu cầu hội nhập. Câu chuyện sinh viên Việt thực sự hiểu gì về AEC, TPP và chuẩn bị gì cho giai đoạn sắp tới được đẩy lên cao trào khi con số này còn quá ít ỏi. Rất nhiều sinh viên chưa thể hiểu rõ được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc hội đủ tiêu chuẩn một người công dân toàn cầu và những “từ khoá”  trên ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước ra sao. Bởi lẽ, thế giới quan của các em đang ngồi ghế nhà trường khác hẳn so với những nhà làm kinh tế vĩ mô. Vậy làm thế nào để sinh viên hiểu được và chuẩn bị thật tốt để chủ động tận dụng những đặc quyền mà chỉ những nước tham gia AEC hay TPP mới có được mới là việc cần được quan tâm đúng mực. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập của đất nước ngày một sâu rộng như hiện nay, giảng viên lại chính là một mắt xích rất quan trọng trong chuỗi cung ứng nguồn nhân lực cho thị trường mới. Việc đào tạo đội ngũ các nhà khoa học chất lượng có khả năng nghiên cứu khoa học chuyên sâu và có khả năng giảng dạy tốt bằng tiếng Anh là điều tất yếu.

Một mục tiêu, một yêu cầu.. .

Để làm được điều này, 14 nghiên cứu sinh trong chương trình tiến sĩ chuyên ngành Quản trị Kinh doanh bằng tiếng Anh của Trường Đại học Kinh tế TP. HCM chỉ có một tiêu không hề đơn giản là có tên lọt vào danh sách nhà nghiên cứu ISI (The Institute for Scientific Information) Danh giá. Các nghiên cứu sinh cũng chỉ cần đáp ứng một yêu cầu mà chương trình đặt ra là sự cam kết hoàn thành thật tốt. Bên cạnh đó, chủ trương của chương trình Tiến sĩ chính là đào tạo ra những nhà khoa học có trình độ cao về lý thuyết, năng lực thực hành phù hợp và năng động có khả năng làm việc, nghiên cứu độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề mới có ý nghĩa khoa học. Chương trình cũng đảm bảo các Nghiên cứu sinh được trang bị đầy đủ các kiến thức nền tảng cho nghiên cứu chuyên sâu, nắm vững phương pháp nghiên cứu khoa học và đào sâu khai thác những vấn đề trong nghiên cứu cho từng ngành chưa được giải quyết.

Ngoài ra, nghiên cứu sinh sẽ được học lý thuyết đi đôi thực hành đứng lớp giảng dạy bằng tiếng Anh. Đây là một điểm đặc biệt mà các chương trình đào tạo trong nước hiện nay vẫn chưa thực hiện được. Đặc biệt, mỗi nghiên cứu sinh được yêu cầu phải có hai bài báo, trong đó có tối thiểu có một bài đăng trên tạp chí có uy tín - của phân loại SSCI hoặc ESCI. Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đông Phong - Hiệu trưởng Trường đại học Kinh tế TP. HCM nhấn mạnh: “Chương trình chỉ dành cho người ham học, ham nghiên cứu và trở thành nhà nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, viện nghiên cứu trong tương lai. Chương trình không dành cho những người chỉ để lấy bằng tiến sĩ Đại học Kinh tế để làm cơ quan quản lý, làm những việc không có tính chất nghiên cứu. Hy vọng với quyết tâm cao độ của nghiên cứu sinh và sự hỗ trợ tối đa của nhà trường sẽ giúp gia tăng số lượng đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ với năng lực nghiên cứu khoa học cao và phương pháp giảng dạy tiên tiến. Từ đó, tạo lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam trên trường quốc tế.




Không quá 15.000 sinh viên để đảm bảo chất lượng:



Việc Bộ GD&ĐT vừa đưa ra Thông tư 32, trong đó quy định quy mô trường đại học không vượt quá 15.000 sinh viên, đang gây nhiều ý kiến trái chiều. PGS. TS Nguyễn Văn Áng, Phó vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ GD&ĐT, trao đổi xung quanh vấn đề này. PGS. TS Nguyễn Văn Áng cho biết: Thông tư 32 đã đưa thêm tiêu chí khống chế quy mô tối đa bên cạnh 2 tiêu chí như đã có trong Thông tư 57. Quy định giới hạn quy mô tối đa để đảm bảo cân đối giữa sự gia tăng số lượng với các điều kiện đảm bảo chất lượng. Về cơ sở pháp lý, các tiêu chí giới hạn quy mô tối đa đã được lấy từ Quyết định số 37/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại họccao đẳng giai đoạn 2006 - 2020. Trước khi Thông tư 32 được ký, Bộ đã báo cáo trực tiếp với Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội và nhận được sự đồng thuận cao về chủ trương chuyển hướng hệ thống giáo dục đại học từ tăng số lượng sang nâng cao chất lượng đào tạo. Các tiêu chí xác định chỉ tiêu tuyển sinh trong dự thảo cũng đã nhận được sự ủng hộ của Ủy ban.

Thưa ông, có ý kiến cho rằng hầu như không có trường nào có thể đáp ứng đủ các tiêu chí mà thông tư đã đặt ra? Trong 3 tiêu chí xác định chỉ tiêu tuyển sinh, với tiêu chí 1 và 2 hầu như không vướng khi triển khai thực hiện trên thực tế. Với tiêu chí 3 giới hạn quy mô tối đa có thể vướng ở một số trường. Trong 219 trường đại học, hiện có 18 trường vượt mức 15.000 sinh viên ĐH chính quy (bao gồm cả ĐH chính quy, liên thông đào tạo theo hình thức chính quy, văn bằng hai đào tạo theo hình thức chính quy). Trong đó có những trường chỉ vượt vài chục đến vài trăm sinh viên. Vì vậy không có cơ sở để nhận định “hầu như không có trường nào có thể đáp ứng đủ các tiêu chí Thông tư đã đặt ra”.

Các trường có quy mô vượt 15.000 sẽ phải làm gì để đáp ứng yêu cầu của thông tư 32? Cũng như tất cả các trường ĐH khác, 18 trường đã vượt 15.000 sinh viên đại học chính quy trước hết cũng phải thực hiện các quy định hiện hành. Ngoài ra, Bộ GD&ĐT sẽ chốt quy mô hợp lý cho từng trường cụ thể theo nguyên tắc: Mỗi trường tự xác định quy mô theo tiêu chí 1 và 2, nếu quy mô đó thấp hơn mức 15.000 thì tốt; Nếu quy mô đó chỉ thấp hơn quy mô năm 2015 của trường, nhưng vẫn cao hơn mức 15.000 thì Bộ sẽ vẫn chấp nhận coi đó là quy mô tối đa của trường; Nếu cao hơn quy mô năm 2015 thì trường phải lấy quy mô năm 2015 là quy mô tối đa.

Các trường đang lo ngại sẽ ế thừa giáo sư và phó giáo sư khi giảm số lượng đào tạo chính quy theo yêu cầu và cho rằng sau thông tư 32, hàng loạt giảng viên sẽ “ra đường”, thưa ông? Thực hiện quy định tại Thông tư 32, nếu lo lắng thì phải lo thiếu giảng viên, khi các trường có số sinh viên chính quy vượt mức quy định, phải tuyển thêm giảng viên, làm sao có thể thừa giảng viên? Hiện nay chúng tôi chưa thấy có điểm nào không thích hợp trong Thông tư 32. Trong tình hình thực tiễn hiện nay ở nước ta, đó là những lựa chọn tốt nhất có thể.




Một nửa số giảng viên sẽ thất nghiệp:



Đó là lo lắng của một số lãnh đạo trường đại học, khi năm 2016 Bộ GD-ĐT sẽ khống chế quy mô đào tạo sinh viên chính quy ở các trường. Theo thông tư 32 quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh của cơ sở giáo dục ĐH vừa được Bộ GD-ĐT ban hành (sẽ có hiệu lực từ tháng 2-2016), một trong những căn cứ để các trường xác định chỉ tiêu tuyển sinh là phải đảm bảo quy mô tối đa của trường, không vượt quá 15.000 sinh viên ĐH chính quy (8.000 đối với nhóm ngành sức khỏe và 5.000 đối với nhóm ngành nghệ thuật).

Không thể cắt giảm đột ngột!

Điểm tin giáo dục ngày 31 tháng 12 năm 2015Mặc dù Bộ GD-ĐT chỉ rõ lý do lần đầu tiên đưa ra tiêu chí này nhằm đảm bảo khả năng kiểm soát của Nhà nước đối với quy mô đào tạo của toàn hệ thống, nhưng nhiều trường lại cho rằng quy định trên bất hợp lý, nặng tính áp đặt chủ quan vì đội ngũ giảng viên của các trường đáp ứng đủ quy mô sinh viên lớn hơn. Tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, tổng số sinh viên ĐH chính quy hiện nay khoảng 26.000. Đội ngũ giảng viên của trường là 1.250 người, trong đó có trên 500 tiến sĩ, gần 200 phó giáo sư, khoảng 20 giáo sư. Theo đó, khi tính theo số liệu giảng viên quy đổi, tỉ lệ sinh viên/giảng viên của trường chỉ chạm mốc 15 sinh viên/giảng viên. Trong khi quy định chung của Bộ GD-ĐT về tỉ lệ sinh viên/giảng viên với các ngành đào tạo tại trường đều ở mức cao hơn, 20-25 sinh viên/giảng viên. Một cán bộ của trường cho biết nếu cứ áp dụng cứng nhắc việc khống chế quy mô thì có đến một nửa số giảng viên của trường thất nghiệp vô lý, vì không có sinh viên để bố trí giờ giảng.

Theo số liệu năm học 2014-2015 của Bộ GD-ĐT, Trường ĐH Nông lâm TP. HCM nằm trong số 18 trường ĐH có tổng số sinh viên ĐH chính quy vượt “trần” quy mô theo thông tư 32 với 16.914 sinh viên. Tuy nhiên, PGS. TS Huỳnh Thanh Hùng - phó hiệu trưởng nhà trường - cho biết số liệu trên không chính xác. “Chỉ tiêu tuyển sinh hằng năm của trường là 5.300 sinh viên. Mấy năm nay trường không tăng chỉ tiêu. Như vậy, tổng số sinh viên chính quy của trường hiện đã hơn 20.000” - ông Hùng nói. Tương tự, theo số liệu của Bộ GD-ĐT, Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP. HCM cũng trong số các trường có quy mô đào tạo vượt “trần” với 16.388 sinh viên chính quy. Tuy nhiên, PGS. TS Đỗ Văn Dũng - hiệu trưởng nhà trường - cho rằng số liệu trên không chính xác, vì tổng số sinh viên hệ chính quy của trường hiện nay khoảng 18.000. “Có thể Bộ GD-ĐT dựa vào chỉ tiêu tuyển sinh giao cho trường hằng năm là 4.000 sinh viên nên đưa ra con số đó. Nhưng thực tế không phải tất cả sinh viên đều ra trường đúng thời hạn. Có năm số sinh viên ra trường đúng hạn chỉ 60-70%” - ông Dũng cho biết.

Theo ông Dũng, việc Bộ GD-ĐT đưa ra quy định khống chế quy mô đào tạo của các trường là rất chủ quan. Hiện nay, mức học phí ở các nước là 30.000-40.000 USD/năm, trong khi mức học phí ở VN hiện nay quá thấp. Vì vậy không thể áp quy định của các nước vào thực tế VN được. Ngay cả cách tính số lượng sinh viên/giảng viên cũng không phù hợp. Nguồn thu chính của các trường ĐH hiện nay là học phí. Nếu cắt giảm sinh viên thì nhà trường lấy đâu ra tiền để đủ trả cho giảng viên và mua các thiết bị phục vụ đào tạo“Nếu thực hiện theo thông tư 32 sẽ rất khó khăn cho nhà trường. Trường buộc phải tinh giản biên chế, đẩy giảng viên ra đường. Trong khi phòng học, cơ sở vật chất được nhà trường đầu tư đáp ứng quy mô đào tạo hiện nay, giờ cắt giảm sinh viên sẽ gây ra lãng phí. Phải có lộ trình cụ thể chứ không thể buộc các trường phải cắt giảm đột ngột như vậy” - ông Dũng nói.

Trường sẽ xin bộ trưởng.. .

PGS. TS Đỗ Văn Xê - phó hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ - cho rằng nguyên tắc cơ bản khi ban hành quy định mới phải không làm xáo trộn cái cũ. “Hiện tại Trường ĐH Cần Thơ có 32.000 sinh viên, nếu thực hiện theo thông tư 32 thì nhà trường phải cắt giảm 17.000 sinh viên. Không lẽ trường buộc tất cả số sinh viên này nghỉ học?” - ông Xê băn khoăn. Tuy nhiên, ông Xê cho rằng mục tiêu của thông tư 32 là “xác định chỉ tiêu hằng năm”  chứ không phải “xác định tổng số sinh viên”. “Cần lưu ý đối với các ĐH quốc gia và ĐH vùng, quy mô sinh viên được tính riêng theo từng trường thành viên. Nếu quy mô sinh viên hiện nay của trường vượt quá quy mô cho phép thì lãnh đạo trường sẽ tính phương án, lộ trình điều chỉnh để dần dần đạt được các tiêu chí và đề nghị bộ trưởng xem xét.

Lấy Trường ĐH Cần Thơ làm thí dụ hiện đang có 32.000 sinh viên hệ chính quy. Đây là trường đa ngành và là trường ĐH trọng điểm quốc gia, có vai trò phục vụ đào tạo nguồn nhân lực cho vùng ĐBSCL, do đó ban giám hiệu sẽ đề xuất bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho phép giữ ổn định quy mô này. Chiến lược phát triển của trường là không tăng quy mô sinh viên. Chúng tôi vẫn đề xuất giữ chỉ tiêu tuyển sinh năm 2016 ở mức 8.500 sinh viên” - ông Xê khẳng định. Cũng theo ông Xê, xét về cơ sở vật chất, số lượng và trình độ cán bộ với quy mô sinh viên thì Trường ĐH Cần Thơ có tầm cỡ một ĐH vùng. Nhưng nhà trường không muốn nâng trường lên thành ĐH vùng, vì quy trình quản lý theo trường ĐH vùng không hiệu quả bằng quy trình hiện nay của Trường ĐH Cần Thơ. Lãnh đạo các trường nằm trong danh sách quy mô vượt “trần” đều cho biết nhà trường sẽ làm việc với bộ trưởng Bộ GD-ĐT để kiến nghị giữ nguyên chỉ tiêu tuyển sinh ĐH chính quy. “Trường đã đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh năm 2016 với Bộ GD-ĐT cũng với 5.300 chỉ tiêu. Hơn nữa, trường chúng tôi là trường đào tạo đa ngành. Trường còn đào tạo nguồn nhân lực lĩnh vực nông nghiệp cho các tỉnh Tây nguyên và duyên hải miền Trung tại hai phân hiệu (Gia Lai và Ninh Thuận). Chủ trương của trường trong những năm tới là chỉ tăng chỉ tiêu đào tạo sau ĐH và giữ nguyên chỉ tiêu ĐH” - ông Huỳnh Thanh Hùng nói.

Không thực hiện theo hướng gây sốc!

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Văn Áng, phó vụ trưởng Vụ Kế hoạch - tài chính Bộ GD-ĐT, thừa nhận một số trường ĐH có văn bản góp ý, kiến nghị về việc thực hiện quy định này. Tuy nhiên thực tế ở một số trường quy mô đào tạo lớn hơn 15.000 sinh viên chính quy, nếu tính tỉ lệ sinh viên/giảng viên chung chung như trước đây thì trường có thể đảm bảo, nhưng khi tính riêng theo khối ngành thì tạo ra chênh lệch lớn khi một số ngành có đội ngũ giảng viên còn hạn chế, nhưng do nhu cầu lớn từ người học nên quy mô tăng cao hơn so với điều kiện thông thường. “Ngay ở Hà Nội, một trường ĐH có truyền thống đào tạo ngành nông nghiệp với lực lượng giảng viên chủ yếu thuộc chuyên môn các ngành kỹ thuật - nông nghiệp nhưng lại có đến 50% sinh viên thuộc về các ngành kinh tế, kế toán. Nếu tính tỉ lệ sinh viên/giảng viên toàn trường thì ổn, nhưng nếu tính theo từng khối ngành như quy định mới thì điều kiện giảng viên hiện tại của trường không đảm bảo chất lượng cho đào tạo khối ngành kinh tế. Như vậy khi điều chỉnh theo cách tính mới - kể cả khi chưa áp dụng việc khống chế quy mô, chỉ tiêu của trường đã phải giảm ở những khối ngành mà giảng viên chưa đảm bảo” - ông Áng dẫn chứng.

Hiện tại, theo thống kê mới nhất của Bộ GD-ĐT, khi tính sinh viên ĐH chính quy gồm cả sinh viên chính quy tuyển sinh từ kỳ thi “ba chung”, văn bằng 2, liên thông chính quy thì hiện cả nước có 18 trường ĐH đang vượt “trần” quy mô theo quy định mới. Dù thông tư 32 đặt ra quy định các trường xác định chỉ tiêu theo một số tiêu chí và phải đảm bảo quy mô không vượt quá 15.000 sinh viên, “nhưng việc chấn chỉnh quy mô đào tạo sẽ không thực hiện theo hướng gây sốc, không bắt các trường đang vượt quy mô tối đa phải giảm chỉ tiêu đào tạo ngay lập tức” - ông Áng nhấn mạnh.

Xác định chỉ tiêu theo từng khối ngành...

“Bộ GD-ĐT đang soạn thảo công văn hướng dẫn các trường thực hiện cụ thể quy định này. Riêng 18 trường đang vượt “trần”  quy mô, Bộ GD-ĐT đưa ra cách giải quyết theo hai hướng: Với những trường nếu xác định chỉ tiêu theo quy định mới (về diện tích sàn, về tỉ lệ sinh viên/giảng viên theo từng khối ngành đào tạo chứ không phải theo chỉ tiêu chung của toàn trường) Mà chỉ tiêu năm 2016 của trường thấp hơn năm 2015 (dù có thể với chỉ tiêu mới, quy mô của trường vẫn lớn hơn 15.000) Thì trường sẽ thực hiện theo chỉ tiêu mới. Còn nếu theo quy định mới, chỉ tiêu của trường vẫn lớn hơn năm 2015 thì năm 2016 trường buộc phải thực hiện chỉ tiêu như năm 2015, không được tăng thêm” - ông Áng nói. Ông Áng cũng cho biết thêm việc điều chỉnh theo hướng này chỉ áp dụng cho các trường hiện đã vượt quá quy mô 15.000 sinh viên chính quy. Với các trường hiện đang có quy mô dưới mức này sẽ không được tăng lên quy mô trên 15.000 sinh viên trong những năm tới.




“Bìa sách toán, nội dung thể dục”  là do đóng nhầm bìa:



Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam vừa có văn bản gửi báo Tuổi Trẻ trả lời về vụ “Sách giáo khoa cho giáo viên: Bìa sách toán, nội dung thể dục”  (Tuổi Trẻ ngày 28-12). Theo đó, sách giáo viên Toán 8 tập 2 và sách giáo viên Thể dục 8 được in năm 2012 tại nhà in Bộ tổng tham mưu. Trong quá trình in ấn đã có cuốn bị đóng nhầm bìa sách như Tuổi Trẻ phản ánh.

Từ năm 2013 đến nay, hai cuốn sách trên được in tại hai nhà in khác nhau nên không thể xảy ra sai sót nói trên. Qua kiểm tra số lượng sách hiện tồn kho của Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam trên toàn quốc thì không có cuốn nào bị sai. Văn bản của Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam cũng nêu rõ: Các thầy cô giáo và phụ huynh nếu mua sách bị đóng sai bìa sách như đã nêu đề nghị gửi về nhà xuất bản để đổi lại sách mới tại các công ty cổ phần Sách và thiết bị giáo dục Cửu Long, miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam sẽ chịu chi phí chuyển phát bưu điện và gửi lời xin lỗi tới các độc giả.




Đình chỉ tuyển sinh phân hiệu của một trường trung cấp y dược:



Sở GD-ĐT Đắk Lắk vừa ra quyết định đình chỉ tuyển sinh đào tạo trình độ trung cấp phân hiệu Đắk Lắk của Trường trung cấp Y Dược Hà Nam, do không đáp ứng điều kiện mở ngành đào tạo trên địa bàn. Theo quyết định, đến ngày 31.12.2016, Sở GD-ĐT Đắk Lắk sẽ đề nghị giải thể phân hiệu này nếu chưa khắc phục những thiếu sót. Năm 2014 Trường trung cấp Y Dược Hà Nam tuyển 130 học viên để đào tạo hai lớp trung cấp y và trung cấp dược tại Gia Lai nhưng chưa được địa phương này đồng ý, sau đó mở phân hiệu hoạt động tại Đắk Lắk và đưa số học viên sang học tại đây.




(Tổng hợp theo ND, TP, TN, TT)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

sách giáo trình công nghệ thông tin pdf doc - sách tham khảo

[-] Mục Lục 1 kế toán doanh nghiệp với visual basic https://ambn.vn/product/35662/ke-toan-doanh-nghiep-voi-visual-basic.html Những kiến thức cơ bản về kế toán như biểu mẫu, báo cáo, sổ sách chứng từ kế toán đã được trình bầy ở những bộ sách trước cùng tác giả, và coi như ở tập sách này là bạn đã nắm rõ về microsoft access và visual basic. Trong sách này, sẽ hướng dẫn bạn thêm khi thiết kế các giao diện nhập dữ liệu, xử lý và báo cáo trong chương trình kế toán, hiểu rõ những kỹ thuật và công cụ lập trình nâng cao và dễ dàng thiết kế thành công một chương trình quản lý kế toán doanh nghiệp bằng Visual Basic 2. lập trình cơ sở dữ liệu visual basic sql server https://ambn.vn/product/35577/lap-trinh-co-so-du-lieu-visual-basic-sql-server.html Cuốn sách này cung cấp cho người học những thông tin chi tiết cảu các công cụ kỹ thuật hiện nay như ADO, ADO MD và ADOX, MSDE, .. SQL Namespace.. Mục tiêu cuốn sách là cung cấp các kiến thức ở mức độ chuyên sâu những công cụ mà kết hợp giữa

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long Mục Lục Lời mở đầu Chương I : Phân tích kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long trong thời gian qua II.Đánh giá hoạt động marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long thời gian qua Chương II : Phân tích môi trường marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Phân tích môi trường marketing vĩ mô II.Phân tích môi trường marketing vi mô III. Phân tích môi trường marketing nội bộ IV. Phân tích swot Chương III. Phân đoạn thị trường của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long với sản phẩm bút bi Thiên Long I. Vị trí hiện tại của doanh nghiệp II. Xác định đối tượng khách hàng hay thị trường cần phân đoạn III. Phân chia thị trường theo những tiêu thức thích hợp IV. Đánh giá tiềm năng của các đoạn thị trường V. Lựa chọn các phương thức marketing nhằm khai thác các đoạn thị trường mục tiêu Chương IV. Xác định chiến lược M

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG HỌC VIÊN: BẾ THỊ DIỆP – HƯỚNG DẪN KH: TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT CHUYÊN NGÀNH: ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁO TRONG GIÁO DỤC MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu 6. Khung lý thuyết của đề tài 7. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.2. Các công trình trong nước 1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 1.2.1. Hoạt động học tập trong nhà trường 1.2.2. Loại hình nhà trường PTDTNT 1.2.3. Đặc trưng học sinh THPT DTTS 1.2.4. Các khái niệm công cụ của đề tài 1.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG Chương 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 2.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.1. Tổng thể