Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG CỐ GẮNG THIẾT LẬP MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO – THƯƠNG MẠI VỚI VIỆT NAM CỦA CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH TRƯỚC NĂM 1858

NHỮNG CỐ GẮNG THIẾT LẬP MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO – THƯƠNG MẠI VỚI VIỆT NAM CỦA CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH TRƯỚC NĂM 1858



Lê Thanh Thủy, Ngô Thị Thu Hiền

1. MỞ ĐẦU

Thế kỉ XVII, cuộc cách mạng thương mại ở châu Á bùng nổ với sự tham dự tích cực của các công ty thương mại của các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Hà Lan. Việt Nam là một trong những địa điểm được nhiều công ty thương mại Tây Âu chú ý, bởi vì quốc gia này nằm trên khu vực biển Đông nơi có tuyến hải thương truyền thống nối các nước Đông Nam Á với Trung Hoa. Ngay từ khi mới đặt chân đến Đông Nam Á, công ty Đông Ấn của Anh (EIC) đã rất tích cực tiếp cận Việt Nam nhằm tìm kiếm hậu thuẫn của nước sở tại để xác lập ảnh hưởng, phục vụ cho các hoạt động thương mại, chính trị của người Anh. Trước khi Pháp nổ súng chính thức xâm lược Việt Nam, người Anh đã có nhiều cố gắng để thiết lập mối quan hệ với Việt Nam nhưng sau 1858, Pháp chiếm được Việt Nam bằng cuộc tấn công xâm lược đã làm cho Anh phải chấm dứt tất cả mọi nỗ lực kéo dài trong nhiều năm. Nhìn nhận lại quá trình xâm nhập của Anh vào Việt Nam trước năm 1858, cho thấy không chỉ có Pháp mà Anh cũng rất muốn chiếm Việt Nam, nhưng Anh đã không thành công do phương thức xâm nhập mà EIC thực hiện không phù hợp đối với trường hợp Việt Nam lúc đó.

2. NỘI DUNG

2.1. Những lần đầu tiếp cận thị trường Việt Nam của thương nhân Anh

Khi đề cập đến lịch sử ngoại thương và những hoạt động của người Anh ở nước ngoài trong các thế kỉ XVII, XVIII, XIX, không thể không nói về công ty Đông Ấn Anh (English East India Copany, EIC). Đây là một tổ chức thương mại có vai trò rất to lớn trong quá trình xác lập ảnh hưởng và xây dựng thuộc địa của đế chế Anh ở phương Đông. Năm 1600, công ty Đông Ấn Anh được thành lập. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của EIC là một phát minh mới nhất về hình thức tổ chức kinh doanh (1). EIC được thành lập trên cơ sở vốn góp của nhiều thương nhân và những người có tài sản ở London. EIC được thành lập xuất phát từ nhu cầu buôn bán với các nước phương Đông của thương nhân London. Do đó, chỉ ít tháng sau khi được thành lập, tháng 3 năm 1601 EIC đã thực hiện chuyến viễn du đầu tiên đến châu Á. Trong thời gian đầu, EIC cố gắng tiếp cận thị trường phương Đông bằng cách đi theo thương nhân Hà Lan tham dự vào các hoạt động tìm kiếm hương liệu ở Đông Nam Á. Cùng với các hoạt động tìm kiếm hương liệu, EIC cũng đã xây dựng được một số cơ sở thương mại của họ ở Đông Nam Á, Ấn Độ và Nhật Bản. Năm 1613, Richard Cocks – người đứng đầu thương điếm của EIC tại Hirado - Nhật Bản đã cử hai cộng sự của ông là Tempest Peacock và Walter Cawarden đến cảng Hội An (Fai - Fo) trên một chiếc thương thuyền Nhật Bản (thuyền mành). Đó là những người Anh đầu tiên đến Việt Nam. Trong chuyến đi này, họ đã bán một số ít hàng hóa mang từ thương điếm Hirado cho nhà vua và quan lại cao cấp của Việt Nam (2).

Những hoạt động đầu tiên của người Anh khi đến Việt Nam năm 1613 được Richard Cocks ghi lại là một chuyến đi đầy khó khăn, gặp nhiều trắc trở và không có kết quả. Năm 1617, Richard Cocks tiếp tục cử hai thương nhân có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thương mại ở khu vực Đông Dương (Indochinese) là Emond Sayer và Will Adam đến Hội An. Trước hết nhiệm vụ của Sayer và Adam là điều tra về sự thất bại của Peacock và Cawarden ở Hội An và tiếp xúc được với chính quyền. Tuy nhiên, chuyến đi thứ hai này của đại diện thương điếm EIC tại Hirado đến Hội An cũng không thành công. Họ đã không tiếp cận được với chính quyền của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Tháng 3 năm 1618, Sayer và Adam đã trở về Nhật Bản mà không thiết lập được bất cứ mối quan hệ nào với Việt Nam. Năm 1621, trước khi EIC quyết định chấm dứt hoạt động của thương điếm Hirado, Richard Cocks vẫn tiếp tục cố gắng tiếp xúc với Hội An thông qua việc phái các tàu của EIC tham dự các hoạt động thương mại ở khu vực bờ biển Trung Hoa, nơi mà người Anh sẽ có điều kiện gần gũi hơn để tiếp xúc với các hoạt động thương mại ở Việt Nam.

2.2. Hoạt động thương mại của người Anh ở Đàng Ngoài 

Những cố gắng của người Anh trong việc thiết lập mối quan hệ với Việt Nam cuối cùng cũng có kết quả, năm 1672 EIC đã xây dựng được thương điếm ở Đàng Ngoài. Nhưng ngay từ khi đặt chân đến Đàng Ngoài, người Anh đã gặp phải những khó khăn, phiền toái trong các hoạt động kinh doanh. Họ bị quan đại diện buôn bán của địa phương hành hạ, nhũng nhiễu và bị ép đưa tàu lên Phố Hiến (3). Người Anh muốn sử dụng Đàng Ngoài để bán hàng hóa mang từ Anh sang và mua tơ lụa ở thị trường này xuất khẩu sang Nhật Bản, đồng thời dùng Đàng Ngoài làm bàn đạp để xâm nhập thị trường Trung Hoa. Tuy nhiên, tham vọng của thương nhân Anh luôn gặp những trắc trở. Họ bị phân biệt đối xử. Chúa Trịnh Tạc chỉ cho phép người Hoa và người Hà Lan được mở thương điếm ở Kẻ Chợ (4). Nỗ lực xâm nhập vào thị trường Trung Hoa thất bại do chính quyền Đàng Ngoài cấm các hoạt động buôn bán ở biên giới phía Bắc trong thời kì nội chiến Trịnh - Mạc. Một yếu tố bất lợi khác nữa đối với hoạt động thương mại của người Anh ở Đàng Ngoài là vấp phải sự cạnh tranh, sự thù địch của thương nhân Hà Lan – đối thủ đã đến trước họ hơn 3 thập kỉ (1637). Nhìn chung, những bước đi đầu tiên của người Anh nhằm thiết lập mối quan hệ thương mại với thị trường Việt Nam thông qua hoạt động của thương điếm ở Đàng Ngoài luôn gặp nhiều khó khăn. Hoạt động buôn bán ở thị trường này không tránh được tình trạng thua lỗ. Do đó năm 1697, EIC quyết định chấm dứt hoạt động của thương điếm ở Kẻ Chợ.

Trước tình hình buôn bán ở Đàng Ngoài gặp khó khăn và phải ngừng hoạt động, Đông Ấn Anh đã chuyển hướng hoạt động vào phía nam của Việt Nam. Năm 1695, đã cử đại diện đến Huế nhằm thiết lập quan hệ thương mại - Ngoại giao chính thức với chính quyền Đàng Trong. Ngày 18/8/1695 tàu của EIC đã đến cửa biển Đà Nẵng, sau đó ngày 27/12 phái viên của EIC là Boweyear đã trình chúa Nguyễn Phúc Chu về những đề nghị của người Anh muốn xây dựng một thương điếm ở Đà Nẵng và cam kết của chính quyền Đàng Trong cho phép EIC được đến buôn bán. Tháng 3 năm 1696, đề nghị của Boweyear đã được chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận về mặt nguyên tắc cho phép EIC xây dựng một thương điếm ở Đàng Trong (5). Tuy nhiên, sau đó, do gặp thất bại trong việc thiết lập quan hệ buôn bán với Nhật Bản (6) nên lãnh đạo EIC ở Madras đã quyết định chấm dứt hoạt động của thương điếm ở Đàng Ngoài và cũng không đoái hoài gì đến kết quả đi sứ đến Đàng Trong của Boweyear nữa. Năm 1699, EIC tiếp tục tham vọng ở Trung Hoa và sau khi thiết lập được một thương điếm ở bờ biển nước này, người Anh cũng xây dựng một cơ sở khác ở Côn Đảo Việt Nam (Pulo Condore) năm 1702. Mặc dù theo nhận xét của đại diện EIC thì Côn Đảo có nhiều thuận lợi nhưng thực tế người Anh đã thiếu khả năng để phát triển hiệu quả hòn đảo này nên năm 1705 họ buộc phải rút đi.

2.3. Những cố gắng xây dựng cơ sở thương mại ở Đàng Trong của thương nhân Anh

Giữa thế kỉ XVIII, sau khi đã chiếm phần lớn lãnh thổ Ấn Độ, Đông Ấn Anh bắt đầu trở lại buôn bán ở khu vực Đông Á. Trong các năm 1764 và 1777 hai tàu buôn của là Peacock và Rumbold đã đến buôn bán ở Hội An và Đà Nẵng (7). Năm 1778, EIC lại cử đại diện là Chapman đến Huế. Thời điểm này, phong trào Tây Sơn đang phát triển mạnh, lực lượng của Chúa Nguyễn thất bại nặng nề phải chạy vào phía Nam. Chapman đến Đàng Trong tháng 11/1778 và trở về Calcutta tháng 3/1779. Trong báo cáo về chuyến đi ông viết: Không có quốc gia nào ở phương Đông giàu có và đa dạng sản phẩm có lợi cho buôn bán như ở đây. Có nhiều loại sản phẩm có giá trị như: Gia vị, quế, lụa, bông, ngà voi…vàng được tìm thấy ở những ngọn núi gần biển... (8). Chapman cho rằng, việc người Anh ở Ấn Độ muốn thiết lập cơ sở ở Đàng Trong là không quá khó trong lúc tình hình chiến sự ở đây đang xảy ra. Ông ta nói rằng chỉ cần 50 sĩ quan châu Âu cùng với 200 lính Ấn Độ và một ít pháo binh là có thể chiếm được một cơ sở ở đây (9). Đề xuất của Chapman về Việt Nam không được chính quyền Anh ở Ấn Độ thực hiện, vì trong thời gian này Anh và Pháp đã kí thỏa thuận hòa bình ở phía đông sau khi giữa hai nước này đã xảy ra những cuộc đụng độ quân sự ngắn ở các thuộc địa châu Phi và châu Mĩ (10). Trong cuốn Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, tác giả cho rằng mặc dù nhận thấy Việt Nam là một đất nước giàu có về sản vật, thuận lợi để buôn bán như trong báo cáo của Chapman nhưng Anh cũng không tha thiết lắm vì đã có thị trường Ấn Độ rộng lớn (11). Nhận định như vậy là chưa thuyết phục vì tham vọng của EIC là xâm nhập vào thị trường Trung Hoa rộng lớn nên người Anh muốn tìm một địa điểm thích hợp làm trung gian trên tuyến đường thương mại từ Ấn Độ đến Trung Hoa mà Việt Nam là một điểm như vậy. Nhưng lúc đó EIC không có hành động gì đối với Việt Nam sau chuyến đi khảo sát của Chapman là do vấp phải âm mưu của Pháp muốn thôn tính Việt Nam và giữa Anh và Pháp đã có thỏa thuận về khu vực Đông Dương.

Sau một thời gian tạm thời không có quan hệ với Việt Nam, năm 1793, trên đường đến Trung Hoa, đại diện của Anh là Lord Macartney đã ghé vào Đã Nẵng. Trong thời gian này, ở nước Pháp đang diễn ra cuộc cách mạng tư sản, ngày 21/1/1793 vua Louis XVI đã bị chính quyền cách mạng chém đầu. Trước tình hình đó, ngày 1/3/1793, nước Anh đã gia nhập liên minh chống Pháp gồm Đức, Áo, Tây Ban Nha, phá vỡ quan hệ hòa bình giữa hai nước. Ở các thuộc địa, Anh giám sát chặt chẽ các hoạt động của Pháp, đặc biệt là ở Đông Dương. Người Anh lo sợ rằng nếu Pháp thành công ở Đông Dương thì sau này các hoạt động của Anh sẽ gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy năm 1793 trên đường đến Trung Hoa, đại diện của Anh đã trở lại Việt Nam. Trong thời điểm này, ở Việt Nam đang xảy ra cuộc chiến tranh giữa nhà Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Sau khi Nguyễn Huệ đột ngột qua đời năm 1792 tình hình chiến sự đã thay đổi, ưu thế nghiêng về Nguyễn Ánh – người đã có thỏa thuận cậy nhờ Pháp nhằm khôi phục chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong vốn đã bị quân Tây Sơn xóa bỏ năm 1777. Cục diện chiến sự đã nghiêng về thế lực Nguyễn Ánh đồng nghĩa với việc thiết lập ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam càng lộ rõ cơ hội hơn. Hiệp ước Versailles 1787 được kí kết giữa triều đình Pháp với đại diện của Nguyễn Ánh là Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) được coi là cơ sở pháp lí chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam trước Anh và các đối thủ châu Âu khác đang muốn nhòm ngó khu vực Đông Dương.

Mặc dù hiệp ước 1787 không được thực hiện do cách mạng tư sản Pháp nổ ra 2 năm sau đó, nhưng nó vẫn có ý nghĩa đối với Pháp, là cái cớ để Pháp can thiệp sâu vào tình hình chính trị Việt Nam, một mặt để thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam, mặt khác muốn ngăn chặn tham vọng chiếm Đông Dương của các nước khác, đặc biệt là Anh. Trong tình hình phe Nguyễn Ánh đang chiếm ưu thế, ảnh hưởng của Pháp ở Việt Nam càng trở nên rõ ràng hơn. Do đó, khi đến Việt Nam trong thời điểm này, đại diện của Anh sẽ gặp những khó khăn nhất định. Trên thực tế, ngay khi đến Đà Nẵng, Macartney đã thất bại trong ý đồ đàm phán với chính quyền địa phương về việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao thương mại giữa 2 nước. Theo nhận định của George Staunton, thư kí của Macartney: Nếu người Anh tỏ rõ thái độ giúp chính quyền Tây Sơn chống lại liên minh Nguyễn Ánh .....http://ambn.vn/recruit/3739/nghien-cuu-thiet-lap-moi-quan-he-ngoai-giao-viet-nam-va-cong-ty-dong-an-cuoi-the-ky-19.html

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

sách giáo trình công nghệ thông tin pdf doc - sách tham khảo

[-] Mục Lục 1 kế toán doanh nghiệp với visual basic https://ambn.vn/product/35662/ke-toan-doanh-nghiep-voi-visual-basic.html Những kiến thức cơ bản về kế toán như biểu mẫu, báo cáo, sổ sách chứng từ kế toán đã được trình bầy ở những bộ sách trước cùng tác giả, và coi như ở tập sách này là bạn đã nắm rõ về microsoft access và visual basic. Trong sách này, sẽ hướng dẫn bạn thêm khi thiết kế các giao diện nhập dữ liệu, xử lý và báo cáo trong chương trình kế toán, hiểu rõ những kỹ thuật và công cụ lập trình nâng cao và dễ dàng thiết kế thành công một chương trình quản lý kế toán doanh nghiệp bằng Visual Basic 2. lập trình cơ sở dữ liệu visual basic sql server https://ambn.vn/product/35577/lap-trinh-co-so-du-lieu-visual-basic-sql-server.html Cuốn sách này cung cấp cho người học những thông tin chi tiết cảu các công cụ kỹ thuật hiện nay như ADO, ADO MD và ADOX, MSDE, .. SQL Namespace.. Mục tiêu cuốn sách là cung cấp các kiến thức ở mức độ chuyên sâu những công cụ mà kết hợp giữa

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long Mục Lục Lời mở đầu Chương I : Phân tích kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long trong thời gian qua II.Đánh giá hoạt động marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long thời gian qua Chương II : Phân tích môi trường marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Phân tích môi trường marketing vĩ mô II.Phân tích môi trường marketing vi mô III. Phân tích môi trường marketing nội bộ IV. Phân tích swot Chương III. Phân đoạn thị trường của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long với sản phẩm bút bi Thiên Long I. Vị trí hiện tại của doanh nghiệp II. Xác định đối tượng khách hàng hay thị trường cần phân đoạn III. Phân chia thị trường theo những tiêu thức thích hợp IV. Đánh giá tiềm năng của các đoạn thị trường V. Lựa chọn các phương thức marketing nhằm khai thác các đoạn thị trường mục tiêu Chương IV. Xác định chiến lược M

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG HỌC VIÊN: BẾ THỊ DIỆP – HƯỚNG DẪN KH: TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT CHUYÊN NGÀNH: ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁO TRONG GIÁO DỤC MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu 6. Khung lý thuyết của đề tài 7. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.2. Các công trình trong nước 1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 1.2.1. Hoạt động học tập trong nhà trường 1.2.2. Loại hình nhà trường PTDTNT 1.2.3. Đặc trưng học sinh THPT DTTS 1.2.4. Các khái niệm công cụ của đề tài 1.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG Chương 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 2.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.1. Tổng thể