BÀI GIẢNG
CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. Nguyễn Hoàng Thân - AMBN
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LÝ THUYẾT VÙNG VĂN HÓA
1.1. Lược quan về khu vực học
1.1.1. Sự hình thành Khu vực học trên thế giới và Việt Nam
Khu vực học là bộ môn khoa học xuất hiện đầu tiên vào cuối thế
kỉ XIX ở châu Âu; Trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai, nó phát triển mạnh
mẽ thành một lĩnh vực khoa học rồi lan rộng sang nhiều nước khác.
Giải thích về nguồn gốc hình thành bộ môn Khu vực học, có ý kiến cho rằng: Thời
kỳ này, các nước tư bản phương Tây không ngừng mở rộng thị trường thuộc địa, để
làm được điều đó, đòi hỏi các nước tư bản châu Âu phải hiểu đúng vị thế của quốc
gia mình và hiểu đúng tình hình các khu vực cũng như các quốc gia trên thế giới.
Những nghiên cứu cơ bản của Khu
vực học chính là cơ sở cho chiến lược xâm chiếm thị trường, tranh cướp thuộc địa
hay chia sẻ không gian sống của các nước đế quốc.
Từ mục đích thực tế trên, hàng loạt những nghiên cứu Khu vực học được
các nhà khoa học đến từ nhiều quốc gia trên thế giới
dày công nghiên cứu như: Anh, Đức,
Pháp, Mĩ…
Ở Việt Nam, với tư cách một ngành khoa học, Khu vực học hình thành hết sức
muộn màng.
1.1.2. Khái niệm Khu vực học
Khu vực học là khoa học liên ngành, nghiên cứu một không gian
địa lý – văn hóa nhất định của một hoặc nhiều cộng đồng người, được phân bố trên
bản đồ và được xác định bởi tập hợp hệ thống các quan hệ đặc trưng. Trên cơ sở sự
tương đồng về môi trường sống, các cộng đồng cư dân ở đó từ lâu đã có quan hệ cội
nguồn và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa
họ đã diễn ra sự giao lưu văn hóa, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng
chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của các cộng
đồng, có thể phân biệt với các khu vực văn hóa khác.
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của Khu vực học
Đối tượng nghiên cứu của Khu vực học
gồm:
-Địa lý tự nhiên
-Nhân chủng
-Sự hình thành và phát triển của các
dân tộc trên thế giới.
-Ngôn ngữ
-Hoạt động kinh tế - Tổ chức chính trị
-Sinh hoạt văn hóa
-Quan hệ nội tại khu vực và quan hệ giữa
các khu vực
-Các quan hệ khác
1.1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu của khu vực học
Nhiệm vụ nghiên cứu Khu vực học sẽ
đi sâu vào các vấn đề sau:
-Trên cơ sở lý thuyết về địa lý – văn
hóa, minh định khái niệm khu vực và khu vực học, xác định mục đích nhiệm vụ và đối
tượng nghiên cứu của ngành khoa học này.
-Khảo sát quốc gia, một đơn vị cơ bản
và tiêu biểu của Khu vực học, từ các bình diện cấu trúc – chức năng, đồng thời đánh giá
sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay.
-Khảo sát mối tương quan giữa dân tộc
và quốc gia trong thời kỳ toàn cầu hóa, đặc biệt xem xét vấn đề tiếp xúc văn hóa
trong thời đại này.
-Tìm hiểu loại hình khu vực chính trị
và so sánh phương Đông với phương
Tây.
1.1.5. Mục đích nghiên cứu của khu vực học
-Nghiên cứu toàn diện và hệ thống tất
cả các đặc điểm của tự nhiên và đời sống xã hội của con người, chủ thể trên vùng
đất đó, nhằm đem lại nhận thức tổng thể về một khu vực, để có thể phân biệt nó với
khu vực khác.
-Nghiên cứu mối quan hệ của từng khu
vực với các khu vực lân cận và toàn thế giới. Điều này càng thấy đúng đắn và bức
thiết trong thời đại toàn cầu hóa ngày càng nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay.
-Góp phần xác lập cơ sở khoa hoc cho
việc tổ chức không gian, quy hoạch lãnh thổ, quản lý quốc gia dân tộc sao cho phù
hợp và hài hòa với xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới.
-Đem lại nhận thức và hiểu biết ngày
càng cao và cho thấy nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cộng đồng đối với việc bảo
vệ ngôi nhà chung trái đất, nhằm phục vụ cho sự phát triển bền vững và phồn vinh
cho toàn khu vực cũng như toàn cầu.
-Tăng cường hợp tác và giao lưu quốc
tế.
-Giúp cho việc mở rộng tầm mắt và cải
tiến phương pháp nghiên cứu. Đặc biệt là so
sánh các loại hình khu vực, trong đó có so sánh các loại hình khu vực chính trị,
so sánh phương Đông với phương Tây.
1.1.6. Phương pháp nghiên cứu Khu vực học
Phương pháp luận nghiên cứu Khu vực học là
xem xét đối tượng một cách toàn diện từ các chuyên ngành phức hợp, đồng thời sử
dụng thành thạo ngôn ngữ của khu vực mình đang nghiên cứu, để làm sâu sắc
thêm những lí giải với điểm nhìn so sánh, nhờ đó có thể tiếp nhận đầy đủ các suy
nghĩ mang tính lịch sử.
-Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
-Phương pháp nghiên cứu liên ngành
1.1.7. Mối quan hệ giữa Khu vực học và phân vùng văn hóa
Trong Khu vực học, các nhà khoa học có đề cập đến hai khái niệm phân
vùng kinh tế - xã hội và phân vùng văn hóa. Trong đó, phân vùng kinh tế - xã hội
bao gồm vùng kinh tế ngành và vùng kinh tế - xã hội.
Trong lý thuyết nghiên cứu Khu vực học, các
nhà khoa học trên thế giới cũng đã đề cập đến
khái niệm vùng văn hóa, như một minh chứng cho mối quan hệ hữu cơ giữa Khu vực học
và phân vùng văn hóa. Vùng văn hóa theo lý thuyết Khu vực học là một vùng lãnh thổ
có những tương đồng về mặt hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có
những mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển
kinh tế – xã hội, giữa các cộng đồng cư dân đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng
văn hóa qua lại, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong
sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với
vùng văn hóa khác.
Tóm lại, là một bộ phận nhỏ thuộc Khu vực học, phân vùng văn
hóa ngày càng trở nên quan trọng trong việc nghiên cứu các vùng miền thuộc
một quốc gia cụ thể như Việt Nam. Những tri thức khái lược về Khu vực học trên đây
phần nào giúp soi tỏ việc nghiên cứu, nhận diện các
vùng văn hóa Việt Nam.
1.2. Quan niệm vùng văn hóa
1.2.1. Khuynh hướng nghiên cứu vùng văn hóa trên
thế giới
Vào nửa cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, bắt đầu hình thành những
ý tưởng, những lý thuyết và khuynh hướng nghiên cứu khác nhau nhằm
nhận thức và lý giải hiện tượng tương đồng văn hóa. Không chỉ làm rõ sự tương đồng,
các nhà khoa học cũng chỉ ra những khác biệt trong
không gian văn hóa, lãnh thổ văn hóa, vùng văn hóa… khiến cho lý thuyết vùng văn
hóa ngày càng hoàn thiện.
Theo những nghiên cứu của PGS. TS Ngô
Đức Thịnh thì hiện nay trên thế giới tồn tại ba khuynh hướng và lý thuyết chính
về vùng văn hóa, đó là: Lý thuyết khuyếch tán văn hóa ở Tây Âu, lý thuyết vùng văn
hóa ở Mỹ và lý thuyết loại hình kinh tế - văn hóa và khu vực văn hóa – lịch sử của
các nhà khoa học Liên Xô cũ.
1.2.2. Nghiên cứu văn hóa vùng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, chúng ta có thể tìm thấy những ghi chép về những
vùng đất cụ thể với những đặc điểm về địa hình, khí hậu, cư dân, cảnh vật, phong
tục tập quán… trong những tác phấm “chí” hay “địa
chí”, như An Nam chí lược của Lê Tắc, Dư địa chí của Nguyễn Trãi,
Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn…
Ở mức độ tổng hợp hơn, đó là các công trình địa chí văn hóa
của các huyện, làng xã, tiếp nối loại địa chí xưa của các nhà nho thời phong kiến.
Trong các công trình địa chí văn hóa
này, đã có sự phối hợp nghiên cứu giữa các nhà khoa học ở trung ương và các cấp chính quyền,
trí thức địa phương. Các sách địa chí văn hóa đã được xuất bản, như Địa chí văn
hóa dân gian vùng Đất Tổ Vĩnh Phú (1986), Địa chí văn hóa Thăng Long, Đông Đô, Hà
Nội (1990), các phần về văn hóa trong Địa chí Hà Bắc (1982), Địa chí Long An (1989),
Địa chí Đà Lạt (1988), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Địa chí Gia Lai (1999)
…
1.2.3. Quan niệm vùng văn hóa ở Việt Nam
Văn hóa vùng là một dạng thức văn hóa, mà ở đó trong một không
gian địa lý xác định, các cộng đồng người do cùng sống trong một môi trường tự nhiên
nhất định, trong những điều kiện phát triển xã hội tương đồng, và nhất là các mối
quan hệ giao lưu văn hóa sống động, nên trong quá trình lịch sử lâu dài đã hình
thành những đặc trưng văn hóa chung.
Những biểu hiện của văn hóa vùng mang tính đa vẻ thể hiện trên
toàn bộ các mặt của đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, tuy
nhiên trong đó đặc trưng hơn cả là lối sống, nếp sống của cư dân, như việc làm lụng,
nếp ăn mặc, đi lại giao tiếp, nếp vui chơi giải trí, phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng,
lễ hội; Các hoạt động văn hóa – nghệ thuật, nhất là văn hóa nghệ thuật dân gian
như văn học dân gian, âm nhạc, dân ca, kiến trúc, trang trí dân gian và chừng mực
nào đó còn thấy ở phong cách và tâm lý của con người.
Trong mỗi một vùng văn hoá, lại có thể chia làm nhiều tiểu vùng
văn hoá. Khái niệm tiểu vùng văn hoá để chỉ những bộ phận hợp thành vùng văn hoá.
Mỗi tiểu vùng được xác định với những nét đặc thù bị chi phối bởi không gian địa
lí, khí hậu và lịch sử hình thành, phát triển của vùng. Việc phân loại tiểu vùng
văn hoá hoàn toàn không phá vỡ tính thống nhất của tổng thể một vùng văn hoá.
1.3. Các tiêu chí phân vùng văn hóa
1.3.1. Các phương án phân định vùng văn hóa ở Việt Nam
Những năm gần đây, việc sưu tầm nghiên cứu và biên soạn các
công trình văn hóa ở Việt
Nam đã bắt đầu thể hiên xu hướng nhìn nhận văn hóa theo vùng. Tuy nhiên, việc phân
vùng văn hóa ở Việt Nam còn thiếu sự thống nhất trong giới nghiên cứu. Hiện có bốn phương
án khác nhau trong phân vùng văn hóa Việt Nam.
Phương án thứ nhất, Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (chủ biên) Trong
cuốn Các vùng văn hóa Việt Nam, NXB văn học Hà Nội, 1995, chủ trương chia nước ta
thành 9 vùng văn hóa.
Phương án thứ hai, Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn, trong
Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995), xác định Việt Nam có 8 vùng văn hóa.
Phương án thứ ba, Ngô Đức Thịnh viết Văn hóa vùng và phân vùng
văn hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, lại chủ trương chia văn hóa
Việt Nam thành 7 vùng.
Phương án thứ tư, theo Trần Quốc Vượng (chủ biên) Trong cuốn
Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997, văn hóa Việt Nam nên chia thành
6 vùng.
1.3.2. Tiêu chí phân vùng văn hóa
Mỗi phương án phân vùng văn hóa Việt Nam đều có một cơ sở lý
luận riêng cùng với việc vận dụng về hệ tiêu chí của vùng văn hóa.
Đối với mỗi vùng văn hóa, ta cần xem xét hai loại yếu tố: Một
là yếu tố quyết định, hai là yếu tố biểu hiện.
Yếu tố quyết định là những yếu tố về địa lý, điều kiện tự nhiên
như địa hình, sinh thái, khí hậu, những đặc điểm về tộc người của dân cư, những
đặc điểm về quá trình phát triển lịch sử - xã hội, lịch sử chính trị, lịch sử đấu
tranh, trạng thái xã hội v.v Yếu tố biểu hiện là lối sống, phong tục tập quán, nghệ
thuật bao gồm âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, ca múa, sân khấu.. ., ngôn
ngữ và văn hóa, sự giao lưu văn hóa giữa nội và ngoại vùng, sự tương tác giữa văn
hóa dân gian và văn hóa bác học, vai trò tinh hoa của trung tâm và sự khuếch tán
của nó đối với vùng, tạo nên sự đồng nhất và sắc thái vượt trội của vùng v.v… Tất
cả các yếu tố biểu hiện trên được bộc lộ ra trong tính cách, tâm lý, nếp sống của
cư dân địa phương.
Dựa vào những nét đặc trưng vừa phân tích ở trên, nhiều nhà
nghiên cứu nước ta chủ trương
chia văn hóa Việt Nam thành 7 vùng văn hóa như sau:
-Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
-Vùng văn hóa Việt Bắc
-Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc
Trung Bộ
-Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
-Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam
Trung Bộ
-Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên
-Vùng văn hóa Nam Bộ
Nam
1.4. Nghiên cứu bản sắc văn hóa vùng đối với việc phát triển
văn hóa Việt
Bản sắc dân tộc hiện hữu khá rõ nét qua biểu hiện của văn hóa
vùng. Vùng văn hóa trước hết là nơi tụ cư của một tập hợp người có quan hệ nguồn
gốc và lịch sử, đó chính là văn hóa làng - hình thành ngay từ thời kì con người
chuyển từ hình thức săn bắt hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi, chuyển từ lối
sống du canh du cư sang lối sống định canh định cư.
Văn hóa vùng giữ vai trò là gạch nối giữa văn hóa làng và văn
hóa quốc gia- dân tộc trên hai phương diện: Kết nối sự rời rạc của các làng xã;
Giữ cân bằng cho mối quan hệ giữa đa dạng và thống nhất văn hóa.
Vùng văn hóa còn là nơi gắn kết các tộc người anh em.
Nhìn chung, văn hóa vùng giữ vị trí, vai trò thứ hai trong quá
trình tiếp biến, tổng hợp văn hóa quốc gia – dân tộc. Kết quả là các dân tộc sinh
sống trong vùng ít nhiều cũng chịu sự tác động của văn hóa vùng. Người Kinh sống
ở Tây Bắc chịu ảnh hưởng của văn hóa vùng này với nhiều sắc thái của các dân tộc
Thái, Mường. Cũng như thế, các dân tộc phía Bắc di cư vào Tây Nguyên, ít nhiều cũng
chịu ảnh hưởng của văn hóa Tây Nguyên, và do đó ít nhiều mang bản sắc văn hóa Ba
Na, Ê đê, Gia rai…
Ngày nay, một số hiện tượng văn hóa tại mỗi vùng có nguy cơ
bị mai một, suy tàn, việc tiếp tục nghiên cứu, đề ra phương hướng
bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của các hiện tượng văn hóa
ấy chính là góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển.
Câu hỏi ôn tập chương 1:
1) Những kiến thức về Khu vực học giúp ích gì trong việc nghiên cứu văn hóa vùng ở
Việt Nam?
2) Nêu quan niệm vùng văn hóa. Nêu các vùng văn hóa ở Việt Nam.
3) Trình bày các tiêu chí phân vùng văn hóa ở Việt Nam?
4) Trình bày khái niệm xứ. Nêu đặc trưng văn hóa của một xứ
điển hình.
5) Phân tích vai trò của việc nghiên cứu các tiểu vùng văn
hóa?
CHƯƠNG 2: CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
2.1. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ bao gồm các tỉnh, thành phố: Hà
Nội, Hà Tây
(cũ), Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hải
Phòng, Quảng
Ninh; Phần đồng bằng của tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh,
Bắc Giang, Ninh Bình.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng
bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ
độ cao 10 - 15m giảm dần đến độ cao mặt biển.
Đặc biệt, Bắc Bộ là vùng duy nhất có mùa đông lạnh kéo dài ba
tháng, khí hậu phân hoá thành bốn mùa tương đối rõ nét. Đồng bằng Bắc Bộ có mạng
lưới sông ngòi khá dày, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông
Mã, cùng hệ thống tưới tiêu dày đặc. Đất đai trong vùng tương đối màu mỡ, thích
hợp cho nền nông nghiệp lúa nước phát triển.
Dựa vào các thành tựu của Khảo cổ học, Nhân học, có thể thấy,
cư dân nguyên thuỷ sống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đương thời thuộc chủng tộc Nam Á
(Việt - Mường, Môn - Khơme). Những di chỉ được phát hiện chứng tỏ rằng, bấy giờ
các nhóm cùng sống với nhau hoặc sống gần gũi nhau đã có số lượng khá đông, cùng
lấy nghề nông trồng lúa nước làm nền kinh tế chủ yếu và cũng có ít nhiều những phong
tục, tập quán giống nhau.
Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp với sự hỗ trợ đắc lực
của nghề luyện kim đồng thau đã tạo nên cái nền cần thiết và cơ bản cho sự chuyển
biến của xã hội từ trạng thái nguyên thuỷ sang thời đại văn minh. Tuy nhiên, cũng
cần thấy thêm rằng, mặc dù còn nhiều hạn chế, bấy giờ đã có sự giao lưu, trao đổi
sản phẩm giữa các vùng, nhất là công cụ bằng đồng, các bát đĩa, bình gốm.
2.1.2. Đặc điểm về văn hóa
2.1.2.1. Ẩm thực
Giống như ở mọi vùng miền khác trên đất Việt, cơ cấu bữa ăn
của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hoá
nông nghiệp lúa nước, bao gồm có cơm, rau, cá, thịt. Đặc biệt, ở đây các gia vị
có tính chất chua, cay, đắng không được ưa chuộng như ở vùng Trung Bộ và Nam Bộ.
Có người đã từng nói rằng Bắc Bộ là “nơi quần tụ văn hoá ẩm thực, văn hoá vùng miền”. Không thể kể hết những
món ăn Bắc Bộ vô cùng đa dạng và độc đáo, nào là bánh cáy Thái Bình, bánh dứa Hưng
Yên, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh phu thê Bắc Ninh, bánh tôm Hà Nội, bánh nhãn
Nam Định.. . Mỗi loại bánh mang những hương vị khác nhau, đặc trưng cho mỗi miền
quê.
2.1.2.2. Nhà ởNhà ở của cư dân Bắc Bộ thường sử dụng các vật
liệu nhẹ, bền. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo
kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hoà hợp với cảnh quan. Nhà thường có mái cong
truyền thống, sau này, mái nhà bình thường được làm thẳng cho giản tiện, chỉ có
những công trình kiến trúc lớn mới
làm mái cong cầu kì.
Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam, vừa tránh được nóng từ phía
Tây, bão phía Đông và gió rét từ phía Bắc, lại vừa tận dụng được gió mát vào mùa
nóng. Trong thời kì phát triển nền kinh tế hàng hoá, khi chọn đất, người ta thường
chọn những nơi gần đường giao thông, thuận lợi cho đi lại, làm ăn, buôn bán.
Ngôi nhà Bắc Bộ phản ánh truyền thống văn hoá của vùng. Tính
cộng đồng thể hiện ở việc không chia phòng biệt lập, giữa hai nhà ngăn bằng rào
cây thấp để dễ liên hệ với nhau. Truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách thể
hiện ở bàn thờ ở gian giữa (phía trong là bàn thờ, phía ngoài là bàn ghế tiếp khách).
2.1.2.3. Trang phục
Cách ăn mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích
ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ.
Thời phong kiến, trang phục của phụ nữ Bắc Bộ là: Váy đen, yếm
trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Đàn ông với y phục đi
làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sòng. Phụ nữ cũng chiếc váy thâm, chiếc
áo nâu, khi đi làm.
Bộ lễ phục của phụ nữ gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là áo dài
tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng
là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ
ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo, bên trong chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông
rất duyên dáng và kín đáo. Lễ phục của đàn ông là chiếc quần trắng, áo dài the,
chít khăn đen.
2.1.2.4. Làng nghề
Đầu thế kỉ XX, nhà nghiên cứu Piere Gourou đã
thống kê được 108 nghề thủ công ở 7000 làng thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Ở đây
có tới 500 làng nghề, tập trung nhiều nhất ở Nam Định, Hà Tây
(cũ), Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà
Nam, Hà Nội. Đặc biệt, Thăng Long - Hà Nội là nơi hội tụ tài hoa, thu hút những
thợ cả, thợ giỏi từ mọi miền đến sinh cơ lập nghiệp.
Hà Nội có Ngũ Xã Tràng, nổi tiếng với nghề đúc đồng, do dân
năm làng gốc ở huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc lập nên từ thế kỉ XVII, là tác giả của
những pho tượng đồng vào loại quý giá nhất nước Nam. Hà Nội có làng gốm sứ Bát Tràng
có lịch sử 500 năm, do những người thợ gốm tài ba từ Thanh Hoá ra gây dựng từ cuối
thế kỷ XV.
Từ Hà Nội ngược về phía Đông Bắc, ta đến với miền đất trù phú
“bên kia sông
Đuống”, với làng tranh Đông Hồ. Tranh Đông Hồ, từ chất liệu đến đề tài, tư tưởng, phong cách nghệ thuật đều
rất dân gian và đậm đà màu sắc dân tộc. Đề tài tranh Đông Hồ rất đỗi bình dị, phản
ánh đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày của người dân quê Việt Nam, tiêu biểu
là tranh “đánh ghen”, “hứng dừa”, “đám cưới
chuột”.. .. Xuôi về phía Nam, ta đến với các làng nghề lụa Hà Đông
(Hà Tây), đũi Nam Cao (Thái Bình).. .
2.1.2.5. Văn hoá dân gian
Có thể nói Bắc Bộ là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá nghệ thuật
của dân tộc Việt đâm chồi, nảy lộc. Đúng như GS. Trần Quốc Vượng đã nhận xét: “Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi
như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm”. Ca dao, dân ca xứ Bắc không
những ngọt ngào, đằm thắm mà còn thấm thía ân tình.
Ở đây, các thể loại thuộc nghệ thuật sân khấu dân gian cũng
khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét, bao gồm hát chèo, hát chầu văn, hát quan
họ, múa rối.. . Trong sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của vùng đồng bằng Bắc Bộ còn
có hát ca trù. Hát quan họ là điệu hát quen thuộc của người con xứ Kinh Bắc.
Múa rối nước là loại hình nghệ thuật sân khấu đặc sắc của riêng
đồng bằng Bắc Bộ. Ngay từ thời nhà Lý, rối nước đã được kết hợp với rối cạn một
cách cực kỳ nhuần nhuyễn và đạt đến độ tinh xảo trong diễn xuất.
2.1.2.6. Nền văn hoá bác học
Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS. Đinh
Gia Khánh còn là “nơi phát sinh
nền văn hoá bác học”. Sự phát triển của giáo dục,
truyền thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp trí
thức ở Bắc Bộ.
Chính sự phát triển của giáo dục tạo ra sự phát triển của văn hoá
bác học. Hầu hết các thơ phú (chủ yếu từ thế kỷ XV trở về trước) Đều thấm đượm tình
cảm yêu nước, toát lên niềm tự hào dân tộc.
Bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán, lịch sử thời này còn
chứng kiến sự hình thành của văn học chữ Nôm
Xuất hiện những tài năng văn học viết như Đoàn Thị Điểm với
bản dịch Chinh phụ ngâm, Cung oán Ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương,
thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị Độ Mai,
Quan âm thị Kính, Phạm Công - Cúc Hoa - Phạm Tải - Ngọc Hoa, Hoàng Trừu, Thạch Sanh
v.v.. . Là những tác phẩm có giá trị nhất, không chỉ với thời đại này mà ngay cả
với thời đại sau, ở thế kỉ XIX có tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục
Vân Tiên của nhà văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
2.1.2.7. Tín ngưỡng, lễ hội
Văn hoá tín ngưỡng ở vùng văn hoá Bắc Bộ là một hình thức văn
hoá đặc thù bao chứa nhiều nội dung như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng
phồn thực, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ thành hoàng làng, tín ngưỡng thờ tổ
nghề.. .
Ở đồng bằng Bắc Bộ, lễ hội rất phong phú, đa dạng… về thời gian,
số lượng, mật độ, nội dung.. . Theo thời gian, có thể chia lễ hội làm nhiều loại:
Lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu.. . Theo không gian địa lý, lễ hội được phân làm
những dạng: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia.. . Tuy vậy, dù vào thời gian
nào hay ở địa phương nào, lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ đều có đặc điểm chung là
mang tính chất lễ hội nông nghiệp. Điều này thể hiện rõ trong các hình thức lễ hội
như thờ mẹ lúa, thờ thần mặt trời, cầu mưa.. .
Lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ không chỉ là những nét phác thảo
về văn hoá mà còn mang đậm tính chất tín ngưỡng tôn giáo. Những lễ hội thường được
đồng nhất với lễ chùa chiền, miếu mạo. Trên mảnh đất thiêng này, ta có thể bắt gặp
nhiều lễ hội truyền thống: Hội chùa Hương (Hà Tây), hội Đền Hùng (Phú Thọ), hội
Gióng (Hà Tây), hội Lim (Bắc Ninh).. . Những lễ hội ấy là kết quả của những tinh
hoa văn hoá dân tộc được kế thừa, chọn lọc, kết tinh và lắng đọng qua các thời kỳ
lịch sử, là kết quả của quá trình tiếp biến văn hoá.
2.1.2.8. Tiếp biến văn hoá
Quá trình tiếp biến văn hoá của vùng “diễn ra lâu dài hơn cả với nội dung phong phú hơn cả” (GS. Đinh Gia
Khánh). Phật giáo du nhập vào Bắc Bộ từ sớm và do đó nhanh chóng được tiếp nhận
một cách rộng rãi trong những thế kỉ đầu công nguyên, rồi tiếp đó chiếm được vị
trí quan trọng vào thời Lý, Trần.
Nho giáo, vào Bắc Bộ theo con đường quan phương cùng với sự
thống trị và nô dịch của các triều đại phong kiến phương Bắc. Vì vậy cho đến đầu
thời độc lập, nó chỉ dừng lại ở một bộ phận nào đó của tầng lớp thống
trị, xa lạ với nhân dân.
Thời thuộc Pháp, đồng bằng Bắc Bộ cũng là một trong những vùng
chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đậm nét hơn cả. Tuy nhiên, người Bắc Bộ đã
có sự thâu hoá linh hoạt, chắt lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để biến thành nét
đẹp riêng của dân tộc mình.
Các hình thức nghệ thuật Bắc Bộ thời kỳ này xuất hiện nhiều
thể loại mới: Trong văn học có Thơ mới; Trong hội hoạ có tranh sơn dầu; Sân khấu
có ca nhạc (có nhạc thính phòng, nhạc cổ điển), kịch.. .
2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc
2.2.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Đây là vùng núi non hiểm trở phía Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, thuộc
về tả ngạn sông Hồng, bao gồm địa bàn của các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn,
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Tuy nhiên, vùng văn hóa Việt Bắc lại có ranh
giới rộng hơn, nghĩa là nó bao gồm cả 6 tỉnh nói trên cộng thêm phần đồi núi của
các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và Quảng Ninh, cùng với vùng đất tả ngạn
sông Thao thuộc Lào Cai, Yên Bái.
Địa hình vùng Việt Bắc ít bị chia cắt như ở Tây Bắc, có cấu
trúc theo kiểu cánh cung, tụ lại ở Tam Đảo.
Cư dân Việt Bắc chủ yếu là người Tày và người Nùng, ngoài ra
còn có một số tộc ít người khác là người Dao, người H’mông, người Lô Lô, người Sán
Chay…
Việt Bắc là vùng văn hóa cổ, nơi tìm thấy dấu vết con người
cổ xưa, tại các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Bình Gia – Lạng Sơn) Và hang Kéo Lèng
(Lạng Sơn), là địa bàn của nền văn hóa Bắc Sơn, tiêu biểu cho giai đoạn sơ kỳ đồ
đá mới và sự phát triển cao của kỹ nghệ cuội ở Việt Nam và Đông Nam Á. Việt Bắc
còn là địa bàn gắn bó với sự nghiệp dựng nước và giữ nước hàng mấy nghìn năm của
dân tộc ta, nó là “phên dậu” của nước
Đại Việt trong suốt thời trung đại, đồng thời cũng là cửa ngõ giao lưu văn hóa giữa
Việt Nam và Trung Quốc từ thời cổ đại cho đến ngày nay.
2.3.2. Đặc điểm về văn hóa
2.3.2.1. Văn hóa sản xuất
Văn hóa sản xuất của cư dân Việt Bắc được đặc trưng bởi nghề
nông làm ruộng nước ở vùng thung lũng và làm nương rẫy ở vùng núi.
Phong phú sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lại là
đầu mối giao thông, nên từ lâu đã hình thành nên các chợ, thị trấn, thị xã hoạt
động buôn bán trao đổi khá sầm uất, kết hợp với chợ thành kiểu phố chợ. Ở đây cũng
hình thành hệ thống bến sông, nơi qua lại trao đổi buôn bán bằng đường thủy, và
một số trạm đảm bảo sự giao thông, thông tin buôn bán.
Phố phường kết hợp với chợ, như chợ Đồng Đăng, Kỳ Lừa, Đồng
Mỏ, Thất Khê… hệ thống chợ dọc hai bên đường biên giới thu hút người mua kẻ bán
tấp nập từ các miền đất nước ta và Trung Quốc đổ về.
2.3.2.2. Ẩm thực
Cơ cấu bữa ăn, thức uống của cư dân Việt Bắc có những hương
vị đặc sắc riêng. Thành phần chính trong cơ cấu bữa ăn là gạo tẻ, song cư dân ở
đây đã tiếp thu kỹ thuật chế biến của các tộc người lân cận như Hoa, Việt… để tạo
nên những món ăn đặc sắc.
Cư dân Tày, Nùng chú ý nhiều tới kỹ thuật nấu nướng do tiếp
thu được qua người Hoa, người Việt cũng như truyền thống và khẩu vị lâu đời của
dân tộc mình. Bên cạnh những món đơn giản thường ngày, còn có nhiều món pha chế
phức tạp, cầu kỳ, những món hỗn hợp đòi hỏi pha chế từ nhiều nguồn thực phẩm và
gia vị khác nhau.
Nói chung, do điều kiện tự nhiên và cũng do sự tiếp xúc văn
hóa với các tộc người Hoa nên cư dân ở đây ưa dùng thịt mỡ, nhất là vào mùa rét,
thích chế biến kiểu xào, rán, quay, hầm, dùng nhiều gia vị cay, chua, ngọt, đắng.
2.3.2.3. Trang phục
Cư dân vùng Việt Bắc đặc biệt là cư dân Tày – Nùng có phong
cách ăn mặc tương đối thống nhất, phân biệt theo giới tính, lứa tuổi và nhóm địa
phương. Trang phục của nam giới Tày – Nùng khá giản dị, gồm áo cánh 4 thân, áo dài
5 thân, khăn đội đầu và giày vải. Quần may theo kiểu đũng chéo, cả quần áo đều may
bằng vải chàm, không trang trí hoa văn. Trang phục của nữ giới đa dạng, cầu kỳ hơn.
Y phục của phụ nữ Tày – Nùng gồm áo cánh, áo dài 5 thân, quần, thắt lưng, khăn đội
đầu và hài vải. Đồ trang sức cũng đơn giản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà
tích bằng bạc. Phụ nữ Nùng chỉ mặc một màu chàm còn phụ nữ tày mặc một chiếc áo
bên trong màu trắng. Chiếc khăn của phụ nữ Tày là khăn vuông, khi lễ tết họ buộc
thêm chỉ đỏ, chỉ xanh quanh vành khăn cho đẹp, còn người phụ nữ Nùng lại thích bịt
răng vàng…
2.3.2.4. Nhà ởCũng như nhiều vùng núi khác ở nước ta, hình ảnh
quen thuộc là những nếp nhà sàn nằm trải dài ven thung lũng, nơi cư ngụ của người
Tày, Nùng, Sán Chay. Với những người Tày sinh sống ở phía Tây Lạng Sơn và Cao Bằng,
ta còn thấy nếp nhà sàn cổ truyền kiến trúc kiểu bốn mái, bằng các vật liệu tre,
gỗ, lá, mặt bằng ngôi nhà gần như hình vuông, có nét tương tự như ngôi nhà sàn của
người Thái Trắng nhưng lại khác biệt rõ rệt với ngôi nhà sàn, đầu hồi khum tròn
của người Thái Đen.
Ở phía Đông, nơi người Nùng và một số người Tày cư trú, phổ
biến kiểu nhà sàn tường trình. Loại nhà này là nhà sàn hay nửa sàn nửa đất, kết
cấu không chỉ có khung cột mà còn có sườn tường trình. Tường trình bằng đất này,
vừa giữ ấm căn nhà vào mùa đông vừa có tác dụng phòng thủ, chống lại giặc và cướp
vùng biên giới.
2.3.2.5. Tôn giáo, tín ngưỡng
Người Tày – Nùng ở Lạng Sơn có đời sống tôn giáo, tín ngưỡng
thật đa dạng: Những ảnh hưởng của Tam giáo (Phật, Đạo, Nho) Du nhập vào từ bên ngoài
(từ Hán xuống và cũng có cả từ Việt lên) Hòa quyện với tín ngưỡng dân gian cũng
không còn thuần chất nữa mà biến dạng đi nhiều.
Người Tày – Nùng cũng có tín ngưỡng vạn vật hữu linh nên trong
cuộc sống họ thờ rất nhiều thần, ma mà họ vẫn gọi là “phi”. Trong các loại ma, có ma lành, ma dữ chuyên làm hại, sử dụng
các phép thuật, bùa ngải để trừ ma dữ, cúng bái để cầu ma lành phù trợ. Các thầy
Tào, Mo, Then vừa cúng bái vừa chữa bệnh bằng ma thuật, bói toán kết hợp với các
vị thuốc dân gian. Cư dân ở đây cũng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như người
Kinh, thờ cúng thần thổ địa, thành hoàng.
Các đền miếu xây dựng ở nhiều nơi thờ các Tiên, Thần, Thánh
như đền Bắc Lệ thờ Cô Bé Thượng ngàn, đền Đồng Mỏ thờ Chầu Mười, đền Suối Ngang,
Suối Lân thờ vọng Mẫu Liễu Hạnh và các thánh trong hệ thống tín ngưỡng Tứ Phủ.
2.3.2.6. Lễ hội
Khi nói đến văn hóa vùng Việt Bắc trước hết phải nói đến lễ
hội Lồng Tồng cũng thường gọi là hội xuống đồng, đó là một lễ hội của đồng bào dân
tộc Tày, cũng là nét quy tụ những sắc thái văn hóa đặc trưng nhất của các dân tộc
như: Nùng, Dao, Sán Chỉ. Lễ hội được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa
thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Lễ hội Lồng Tồng
diễn ra tối thiểu trong phạm vi một bản, còn thông thường được tổ chức với sự liên
kết một số bản gần gũi nhau, có khi mở rộng ra cả một vùng tới vài chục bản. Dự
hội đông đảo nhất là người Tày, người Nùng, nhưng trong hội luôn có nhiều người
của các tộc láng giềng tham gia, kể cả những người đồng tộc ở bên kia bên giới Việt
– Trung và người Việt ở miền xuôi lên tham dự.
Ngoài hội Lồng Tồng, ở Việt Bắc còn có hội Lượn Nàng Hai (lễ
hội Mẹ Trăng) Được tổ chức ba năm một lần ở một số địa phương tại Lạng Sơn, Cao
Bằng để bày tỏ sự sùng bái nữ thần Trăng.
2.3.2.7. Nghệ thuật
Hát then và cây đàn tính là đặc trưng tiêu biểu của văn hóa
người Tày ở vùng Việt Bắc. Hát then là một cuộc diễn xướng trường ca. Các bản trường
ca gồm nhiều chương đoạn với độ dài ngắn và nội dung chi tiết khác nhau. Bản dài
nhất đã sưu tầm được dài tới 4.949 câu với 35 chương đoạn. Hát then là một hình
thức diễn xướng tổng hợp bao gồm cả ca nhạc, múa, diễn với nhiều tình huống khác
nhau. Trong cuộc lễ, ngoài nhiệm vụ thực hiện các nghi thức cúng Then hoặc Giàng,
người hát then đồng thời phải đảm nhiệm chức năng của một diễn viên tổng hợp. Họ
vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể hiện nội dung các câu hát. Hát then có nhiều
làn điệu.
Sli, lượn là hình thức hát đối đáp, giao duyên giữa trai gái.
Trong ba hình thức lượn thì có một loại gọi là lượn Lạng Sơn, hai hình thức kia
là lượn Cọi và lượn Khắp. Sli của người Nùng cũng có những sắc thái riêng tùy theo
mỗi ngành Nùng. Trong các ngày hội, ngày cưới, ngày mừng nhà mới, thanh niên nam
nữ thường hát sli, lượn.
2.3. Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ
2.3.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Đây là một vùng rộng lớn bao gồm các tỉnh Lai Châu, Điện Biên,
Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, phía Tây Nam tỉnh Phú Thọ, và phía Tây Thanh
– Nghệ - Tĩnh. Đây là vùng núi non trùng điệp thuộc hữu ngạn sông Hồng, cùng các
dải núi cổ và các cánh rừng già thuộc địa đầu của Trường Sơn Bắc.
Về mặt địa hình, vùng Tây Bắc được đặc trưng bởi những dãy núi
cao và những dòng sông lớn, chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn
dài đến 180km, rộng 30km, cao hơn 1500m trong đó có các đỉnh như Phan Xi Pang cao
3142m, Yam Phình cao 3096m, Pu Luông cao 2938m. Các dãy núi cao bị chia cắt mạnh
bởi những nếp đứt gãy của kiến tạo địa chất tạo thành những thung lũng và các con
sông lớn chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam như hệ thống sông Đà, sông Mã, sông
Thao.
Khí hậu vùng Tây Bắc mang tính lục địa rõ nét. Tuy rằng cũng
nằm trong vòng đai khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do ở một độ cao từ 1800 – 3000m
nên khí hậu ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới.
Thiên nhiên, hệ thống thực vật ở Tây Bắc rất phong phú. Điển
hình nhất vẫn là loại rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong đó nổi bật hơn cả là
những rừng ban, những rừng tre vầu ống lớn.
Vùng Tây Bắc tươi đẹp là nơi quần tụ khoảng 20 tộc người. Chỉ
kể những tộc người tương đối đông dân, đã có dân tộc Thái (với các ngành Đen, Trắng,
Đỏ), H’mông (với các ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa), Dao (với các ngành Quần Chẹt,
Nga Hoàng, Dao Đỏ), Mường, Khơ Mú, Xinh Mun, Tày…
Ngược dòng lịch sử, đến đầu công nguyên là ta có thể tìm thấy
cơ tầng văn hóa của cư dân vùng này rồi. Mỗi tộc người đều có những nét văn hóa
riêng, có thể còn được lưu truyền đến ngày nay hoặc ẩn hiện đằng sau những câu chuyện kể, những truyền
thuyết…
2.3.2. Đặc điểm về văn hóa
2.3.2.1. Văn hóa sản xuất
Căn cứ vào đặc điểm môi trường sinh thái nhân văn mà các nhà
nghiên cứu đã phân chia thành
3 dạng thức văn hóa tương ứng với 3 môi trường cảnh quan cơ bản:
-Văn hóa của các dân tộc cư trú ở vùng
thung lũng lòng chảo thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái và Việt – Mường như Thái, Mường,
Lào, Lự, Tày, Nùng v.v…
-Văn hóa của các dân tộc cư trú ở các
sườn núi thuộc rẻo giữa nói ngôn ngữ Môn – Khơ me như Khơ Mú, Kháng, Xinh Mun, Mảng…
-Văn hóa của các dân tộc cư trú ở rẻo
núi cao thuộc nhóm ngôn ngữ Mông – Dao và Tạng – Miến như H’mông, Dao, Hà Nhì, Lô
Lô, Cống, Si La v.v.. .
Cũng bởi sự phân bố này đã tạo nên những sắc thái khác nhau
về phương thức canh tác nông nghiệp của các dân tộc người ở đây, đó là làm ruộng
nước ở thung lũng và lòng chảo và nương rẫy ở sườn núi. Người Khơ Mú, La Ha, Kháng,
Mảng, Xinh Mun làm nương rẫy theo lối phát, cốt, đột, trỉa. Người H’mông ở núi cao
thường phát rừng làm nương và làm ruộng bậc thang. Người Thái ở vùng thung lũng
làm nông nghiệp ruộng nước, dựa vào hệ thống tưới tiêu, thủy lợi mà sản xuất. Văn
hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng với hệ thống tưới tiêu khá hoàn chỉnh
là mương, phai, lái, lịn.
2.3.2.2. Ẩm thực
Các dân tộc Tây Bắc chủ yếu ăn cơm nếp, gạo nếp được đồ thành
xôi ăn trong bữa chính hàng ngày, được nấu thành cơm lam, thành cốm, xôi màu và
các loại bánh tét, bánh gio… Ngô được dùng để ăn lót dạ hay ăn chơi dưới dạng luộc,
nướng hay rang. Những lúc giáp hạt ngô được bung. Ở người H’mông và các dân tộc
nói ngôn ngữ Tạng – Miến, ngô được xay thành bột và đồ chín bằng chõ gọi là mèn
mén.
Thức ăn của người vùng cao khá phong phú, đa dạng và độc đáo.
Trong đó các loại gia cầm, gia súc chủ yếu là để phục vụ việc cúng tế, tết nhất.
Hằng ngày, họ thường ăn những thức ăn săn bắt hoặc hái lượm được. Người La Hủ có
tập quán bắt ếch xanh vào đầu mùa mưa rồi phơi khô để ăn dần cả năm. Khi ăn thường
nướng khô hoặc nấu với canh hoa chuối rừng. Người La Hủ, Si La, Cống và Xá Phó rất
thích ăn các loại thịt chuột, sóc, chim sấy khô và đó cũng là lễ vật dùng để dâng
cúng tổ tiên của họ. Người Dao đặc biệt thích món thịt ướp chua như thịt chuột hoặc
thịt lợn nhà.
2.3.2.3. Nhà ởMột hình ảnh đẹp khi nhắc đến vùng Tây Bắc và
dần trở thành biểu tượng của vùng đất này, đó là ngôi nhà sàn. Nhà sàn vùng Tây
Bắc có thể chia làm hai loại: Loại mái rùa có khau cút ở hai đầu hồi của người Thái
Đen và loại 4 mái phẳng của người Thái Trắng, người Mường, người Giáy, người Tày.
Nhà đất là loại hình nhà cửa truyền thống phổ biến của các cư
dân vùng cao như H’mông, Dao, Pa Dí, Si La… Bố cục mặt bằng ngôi nhà của người H’mông
tương đối thống nhất và mang đậm nét đặc trưng văn hóa của họ: Ngôi nhà gồm ba gian
với một của chính giữa nhà, một cửa phụ ở đầu hồi, gian giữa là nơi thờ tổ tiên.
Nguyên vật liệu làm nhà của người H’mông đơn giản, ngoài gỗ
là nguyên liệu chính để dựng khung nhà ra, tùy từng nơi mà tường nhà của họ có thể
bằng ván gỗ ghép, liếp nứa hoặc tường trình; Mái nhà có thể lợp bằng cỏ tranh hoặc
bằng gỗ pơ mu. Nét đơn sơ trong việc xây dựng nhà cửa của họ có lẽ mang tính chất
chung của các làng du canh du cư.
2.3.2.4. Trang phục
Nét đặc trưng trong trang phục giữa các dân tộc vùng cao và
vùng thấp ở Tây Bắc được thể hiện khá rõ qua bộ trang phục của nữ giới.
Nhìn chung, bộ y phục nữ giới của các dân tộc vùng thấp đơn
giản về kiểu dáng, trầm lắng về màu sắc và ít có trang trí hoa văn, ít dùng màu
sắc sặc sỡ. Bộ y phục của nữ giới Thái và Mường về cơ bản là như nhau, đều có chiếc
váy trùm mắt cá chân và áo ngắn, có khác là ở tiểu tiết.
Phần lớn phụ nữ các dân tộc vùng cao Tây Bắc đều mặc váy, riêng
người Hà Nhì và một số nhóm H’mông, một số nhóm Dao thì mặc quần. Bên cạnh váy thì
phụ nữ vùng cao cũng có nhiều loai quần khác nhau, như quần chẹt của người Dao Quần
Chẹt ở Hòa Bình, quần ống rộng của người Dao Đỏ ở Lào Cai và của người H’mông Đen
ở Lào Cai, Yên Bái v.v… So với váy thì quần của họ ít trang trí hoa văn hơn. Áo
của phụ nữ vùng cao cũng khá phong phú về kiểu dáng, được chú ý trang trí hoa văn
nhiều hơn váy và quần của họ. Cả người vùng thấp và vùng cao ở Tây Bắc đều có sở
thích đeo đồ trang sức.
2.3.2.5. Văn học dân gian
Điểm nổi bật trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc ở vùng
thấp Tây Bắc là sự phong phú về thể loại, đặc sắc và trữ tình về nội dung. Hầu hết
các thể loại đều có mặt trong văn học dân gian của họ như thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích, ca đao, tục ngữ, hát đồng
dao, câu đố…
Qua thống kê cho thấy chỉ riêng các tác phẩm văn học dân gian
được ghi chép lại bằng các loại chữ Thái cổ đã có khoảng 2000 tác phẩm. Từ lâu,
văn học dân gian của các cư dân vùng thấp ở Tây Bắc đã được biết đến qua các tác
phẩm truyện thơ nổi tiếng như Xống chụ xon xao,
Khun Lú nàng ủa của người Thái hay Nàng Nga Hai Mối của người Mường. Họ cũng là
chủ thể của các áng sử thi Thái, Mường đồ sộ, tiêu biểu cho sử thi của các dân tộc
ở miền núi phía Bắc như Chương Han và Ẳm ệt luông của người Thái, mo Đẻ đất, đẻ
nước của người Mường… Có thể nói đặc thù của văn học dân gian các dân tộc vùng thấp
là các thể loại thơ dài.
Nét nổi trội trong văn học dân gian các dân tộc vùng cao Tây
Bắc là ở sự phong phú, đa dạng của kho tàng truyện cổ dân gian và thể loại hát dân ca.
Người vùng cao đặc biệt thích hát dân ca, nhiều người trong số họ cũng là các nghệ
nhân tài ba có thể xuất khẩu thành chương. Dân ca của người H’mông được biết đến
qua hệ thống các bài hát Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát tình yêu,
Tiếng hát cưới xin, Tiếng hát cúng ma.
2.3.2.6. Nghệ thuật
Nét nổi trội trong nghệ thuật biểu diễn của các dân tộc vùng
thấp là xòe Thái và cồng chiêng của người Mường.
Người H’mông nổi tiếng với các điệu múa khèn, đá chân hùng dũng
của nam giới. Người Khơ Mú, Xinh Mun lại có điệu múa lắc hông, lượn eo đặc trưng.
Còn điệu tăng bu (dỗ ống) Lại là điệu múa của dân tộc La Ha. Người Mường thì có
điệu múa bông đặc sắc.
Đi liền với những điệu múa này là những loại hình nhạc cụ cũng
rất đặc biệt của vùng Tây Bắc. Đó là hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng
hay bằng bạc, tiêu biểu như Pí pạp, khèn bè (Thái), sáo, khèn (H’mông), tính tẩu
(Thái), Ô ống ôi (Mường), Hưn mạy (Khơ Mú), đàn tròn (Hà Nhì) … Những nhạc cụ này
đã tạo nên một âm thanh du dương trầm bổng như núi rừng Tây Bắc trùng điệp vậy.
Hội cồng chiêng là nét đặc sắc trong sinh hoạt văn hóa của người
Mường gắn với lễ sắc bùa.
2.3.2.7. Tín ngưỡng, tôn giáo
Trong đời sống văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của các dân tộc
Tây Bắc còn mang đạm yếu tố bản địa và ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố du nhập.
Tuy một số dân tộc có ảnh hưởng các yếu tố của Đạo giáo nhưng không phổ biến. Chẳng
hạn, ở tầng lớp quý
tộc người Thái thì là quan niệm về thứ bậc của điện thờ, còn ở người Dao thì chủ
yếu thể hiện qua một số nghi lễ như cấp sắc.
Người Mường quan niệm vũ trụ ba tầng: Tầng giữa là mường pưa
– mường bằng phẳng, nơi ở của người trần gian, tầng trên cao là mường trời, nơi
ở của vua trời và các vị thần giúp việc, tầng thấp nhất ở dưới mường pưa gồm thế
giới dưới đất và dưới nước, cùng với hai tầng kia tạo thành bốn thế giới.
Cũng như vậy các dân tộc đều có quan niệm chung về vía, về các
ma lành, ma dữ. Từ các dân tộc ở vùng thấp như người Thái, người Mường đến các dân
tộc ở vùng cao như H’mông, Dao, Phù Lá, Si La, Hà Nhì… đều có quan niệm cho rằng
muôn loài sống được là nhờ có vía tồn tại. Con người ta có nhiều vía, mỗi bộ phận
trên cơ thể đều có vía ngự trị, vía của bộ phận nào lạc thì bộ phận đó sẽ đau yếu
nên phải mời thầy làm lễ cũng gọi vía về với chủ.
2.3.2.8. Lễ hội
Các dân tộc cư trú ở vùng cao cũng có những lễ hội mang đặc
điểm riêng. Nét đặc trưng trong lễ hội của các dân tộc vùng cao như H’mông, Dao
là thường được tổ chức trong phạm vi gia đình hoặc dòng họ nhưng có sự tham gia
và ủng hộ của cộng đồng. Người H’mông có lễ hội gàu tào được tổ chức trong phạm
vi gia đình với ý nghĩa cầu sức khỏe, cầu phúc, cầu may. Người dao có tết nhảy tổ
chức vào mồng một, mồng hai do một dòng họ đứng ra tổ chức. Một số dân tộc khác
còn có các lễ hội cầu mùa khá điển hình. Chẳng hạn, người Khơ Mú có lễ hội cầu mưa,
bằng những ma thuật như giá kéo đuôi con thuống luồng để cầu mưa. Người Xinh Mun
có lễ hội ca sai sa típ tổ chức vào mùa măng mọc. Trong các lễ hội của họ thường
có nhảy múa, đùa vui xung quanh cây vũ trụ được hiểu là cây lộc, cây mơ ước.
2.4. Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
2.4.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ là địa bàn thuộc đồng bằng
và duyên hải các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa
Thiên Huế. Có thể phân vùng văn hóa này thành các tiểu vùng: Tiểu vùng văn hóa xứ
Thanh, tiểu vùng văn hóa Xứ Nghệ và tiểu vùng văn hóa Bình – Trị Thiên.
Về mặt địa hình, đây là rẻo đồng bằng hẹp, nằm kẹp giữa Biển
Đông ở phía Đông và dãy Trường Sơn ở phía Tây.
Khu vực Bắc Trung Bộ vào mùa đông, do gió mùa thổi theo hướng
Đông Bắc mang theo hơi nước từ biển vào nên toàn khu vực chịu ảnh hưởng của thời
tiết lạnh kèm theo mưa. Đến mùa hè, không còn hơi nước từ biển vào nhưng có thêm
gió mùa Tây Nam (còn gọi là gió Lào) Thổi ngược lên, gây thời tiết khô nóng.
Bắc Trung Bộ là vùng đất lịch sử văn hóa lâu đời, đặc biệt là
xứ Thanh và xứ
Nghệ.
Sau khi nhà nước Âu Lạc sụp đổ, nước ta rơi vào ách thống trị,
đô hộ của các vương triều phong kiến phương Bắc, thì vùng xứ Thanh và xứ Nghệ thuộc
Cửu Chân, vùng Bình - Trị - Thiên thuộc quận Nhật Nam.
Năm 192 sau CN, người Chăm đã đánh đuổi phong kiến Trung Quốc
ra khỏi Nhật Nam và dựng nước Chămpa độc lập từ Đèo Ngang vào đến Thuận Hải (Trong
gần 12 thế kỉ, Bình - Trị - Thiên thuộc vùng đất địa đầu của vương quốc Chămpa về
phía Bắc).
Năm 1306, sau đám cưới của Công chúa Huyền Trân (nhà Trần) Với
vua Chăm (Chế Mân), vùng đất Châu Ô, Châu Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên) Sát nhập vào
Đại Việt. Hai Châu Ô, Lý trở thành trấn Thuận Hóa.
Thế kỉ XVII, đặc biệt là năm 1687, vương triều Nguyễn cát cứ
ở Đàng Trong lấy Huế - Phú Xuân là trung tâm, làm bàn đạp vươn mạnh vào miền Ngũ
Quảng và Gia Định để khai hoang sinh cơ lập nghiệp. Năm 1788, Nguyễn Huệ làm lễ
đăng quang tại Phú Xuân trước khi xuất quân đi đánh giặc Thanh, giải phóng đất nước,
thống nhất hai miền Nam Bắc.
Những bối cảnh lịch sử nêu trên có ảnh hưởng quyết định đối
với các sắc thái văn hóa độc đáo của vùng văn hóa đồng bằng và duyên hải Bắc Trung
Bộ.
2.4.2. Đặc điểm về văn hóa
2.4.2.1. Ẩm thực
Bắc Trung Bộ phần lớn là những dải đất hẹp ven biển, lượng thủy
hải sản phong phú, vừa có cá sông, vừa có cá biển, cá ăn quanh năm. Nơi đây nổi
bật lên phong vị ẩm thực rất riêng, rất độc đáo của hai vùng đất: Xứ Nghệ và xứ
Huế.
Là một vùng quê nghèo, xứ Nghệ vẫn được cho là chuộng sự thực
dụng, ăn chắc mặc bền. Người xứ Nghệ không chuộng sự cầu kỳ, chế biến công phu mà
chỉ thích những món ăn thô sơ, mộc mạc.
Huế được nhiều người biết đến bởi sự phong phú và đa dạng trong
văn hóa ẩm thực. Các món ăn xứ Huế là một sự kết hợp hài hòa đến mức tài tình những
món ăn của người Chăm với món ăn của người Việt, người Mường cổ.
Địa điểm thưởng thức ẩm thực Huế cũng rất phong phú. Người Huế
có thể tổ chức ăn ở trong nhà, ăn ở ngoài vườn, ăn trên đò, ăn trên đầm, phá, ăn
ngoài biển, ăn trong chùa, ăn giữa lăng. Cho dù ăn ở không gian như thế nào thì
vẫn luôn toát lên nét tinh tế nhân văn của con người.
2.4.2.2. Trang phục
Nổi bật nhất trong trang phục của cư dân vùng này là cách ăn
mặc của người Huế. Nói tới phong cách riêng của Huế trong trang phục người ta thướng
nhắc tới những nét đặc trưng thể hiện qua chiếc áo dài Huế, nón bài thơ, chiếc áo
nối choàng gốc gác từ các cô gái lái đò trên dòng Hương Giang, thể hiện qua màu
sắc Huế và phục sức Huế.
Phụ nữ Huế chăm chút mái tóc và cách thức chải tóc cũng là một
dấu hiệu về từng lớp người. Các em nhỏ tóc để xõa bờ vai, các em nữ
sinh thì tóc kẹp gọn để thả xuôi xuống lưng màu áo tím. Khi đã có chồng con, các
bà các cô chải ngược tóc lên rồi búi gọn sau gáy. Hương ướp tóc từ nước gội, nhưng
cũng có khi trên mái tóc kín đáo cài thêm bông hoa lý.
2.4.2.3. Gia phong xứ Nghệ
Khi bàn đến phong cách người xứ Nghệ, một số người nhận xét,
trong một con người xứ Nghệ có ba nhân vật: Một kẻ bình dân khố chạc (tiếng địa
phương là khố dây, chỉ hạng người cùng cực), một người chữ nghĩa văn chương, một
chiến sĩ cách mạng. Cả ba nhân vật đều có cái riêng về chất lý tưởng trong tâm hồn.
Dù là nhân vật như thế nào thì họ đều có chung đặc điểm là lòng trung kiên, sự vượt
khó để đi lên, sự cứng cỏi trong hoạn nạn. Những đặc điểm ấy đã thôi thúc người
dân xứ Nghệ vượt lên số phận, chính vì thế mà nơi đây có nhiều người thành đạt.
Con người xứ Nghệ luôn biết cách đối nhân xử thế, làm đúng bổn phận của mình đối
với gia đình, họ tộc. Nhưng điều mà nhiều người thán phục là tính cộng đồng của
người dân xứ Nghệ rất cao.
2.4.2.4. Tín ngưỡng, tôn giáo
Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng duyên hải Bắc
Trung Bộ khá đa dạng, phong phú. Bên cạnh việc thờ Phật, Đạo, Nho, Ki tô giáo và
các tín ngưỡng dân gian khác như nhiều làng quê ở Bắc Bộ thì tùy địa phương, ta
thấy nổi lên một số hiện tượng tín ngưỡng sau.
Người Thanh Hóa coi trọng việc thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh,
Đạo Đông và thần Độc Cước.
So với xứ Thanh, xứ Nghệ bộc lộ rõ nét văn hóa duyên hải hơn,
cũng chính vì lẽ đó, tín ngưỡng Tứ vị Thánh nương ở xứ Nghệ trở nên nổi trội và
có sức lan tỏa rộng ra các nơi khác dọc biển từ Bắc tới Nam. Đền Cờn là trung tâm
thờ tứ vị thánh nương, ngoài ra còn có 30 làng khác ở Quỳnh Lưu thờ vị thần này.
Nhiều nơi ở ven biển Bắc Bộ thờ Tứ vị thánh nương dưới dạng thờ Tống Hậu, Thiên
Hậu.
Đến Huế, ta như đắm chìm trong không gian văn hóa Phật giáo
đậm chất thanh tịnh, chất ấy đến từ cảnh sắc thiên nhiên và con người hiền hậu xứ
Huế.
2.4.2.5. Lễ hội
Cũng giống bao vùng miền khác, nơi đây hội tụ nhiều lễ hội dân
gian đặc sắc, trải dài từ Thanh – Nghệ - Tĩnh đến Bình – Trị - Thiên, nhưng nổi
bật nhất vẫn là lễ hội và trò diễn ở Thanh Hóa.
Hội làng ở Thanh Hóa ngoài các nghi thức cúng bái, rước tế mang
tính linh thiêng, các trò diễn đóng vai trò rất quan trọng trong hội làng, có thể
kể tên các trò sau: Trò Tiên cuội, trò Trống mõ, trò Bắt cọp, trò Hùm, trò Lào,
trò Xiêm, trò Tú Huần, trò Lăng Ba Khúc và nhất là hệ thống trò Xuân Phả, một đỉnh
cao của diễn xướng dân gian Việt Nam gồm trò Hoa Lang, múa Chiêm Thành, múa Lục
Hồn Nhung, múa Ải Lao, trò Ngô Quốc.
2.4.2.6. Nghệ thuật
Xứ Thanh thật sự đã trở thành một vùng phong phú về các làn
điệu dân ca với điệu hát cửa đình Thanh Hóa, còn gọi là hát Nhà Trò, một dị bản
của hát ả đào (ca trù) Ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, hát Trống quân, hát Ghẹo (hát
Huê tình), chèo chải Thiệu Hóa, chèo chải Hoằng Hóa, hát khúc Tĩnh Gia và nổi tiếng
nhất là hò sông Mã.
Xứ Nghệ là xứ sở của nền văn hóa dân gian đặc sắc với những
điệu hò, hát ả đào Cổ Đạm, hát giặm Hà Tĩnh, hát ví Nghệ Tĩnh. Hát giặm không phổ
biến khắp xứ nghệ mà chỉ thịnh hành ở một số địa phương như Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm
Xuyên, Kỳ Anh với hai hình thức hát giặm nam nữ và hát giặm vè. Còn hát ví thì phổ
biến ở nhiều nơi trong xứ Nghệ. Hát ví gắn liền với các phường nghề.
Có nhiều người nói rằng đến Huế mà không được nghe ca Huế thì
cũng có nghĩa là chưa đến Huế. Đi liền với ca Huế là dàn nhạc Huế với bộ ngũ tuyệt:
Đàn tranh, đàn tỳ, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tam xen với đàn bầu, sáo và bộ gõ trống
Huế, sanh loan, sanh tiền. Kỹ thuật đàn và hát ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng lại
mang đậm sắc thái địa phương nên gần gũi với điệu hò Huế hay lý Huế. Ca Huế là chiếc
cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian.
Huế còn nổi tiếng bởi nhã nhạc cung đình mà đến nay đã được
tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
2.4.2.7. Văn học
Nổi tiếng là vùng đất học, đất “nhiều chữ”, văn học dân gian và văn học bác học xứ Nghệ được đánh giá
là rất phong phú, đa dạng. Xứ Nghệ lưu giữ kho tàng văn hóa dân gian với các hình
thức và thể loại như truyện cổ, thần thoại, truyền thuyết, ca
dao, dân ca, vè, thành ngữ, tục ngữ, truyện ngụ ngôn, truyện trạng…
Truyền thống văn học bác học của xứ Nghệ cũng thật phong phú.
Các nhà nho xứ Nghệ ở các thời đại đều đóng góp những tác phẩm có giá trị gắn với
tên tuổi những con người như Hồ Tông Thốc, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ, Phan Bội Châu… Ngoài ra, xứ Nghệ cũng nổi tiếng là đất được nhiều trí thức
quan tâm, thể hiện qua các tác phẩm loại ký sự, nhân vật chí, xã chí, huyện chí,
tỉnh chí, di tích thắng cảnh, các sưu tập, chuyên khảo…
2.5. Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam Trung Bộ
2.5.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Vùng văn hóa Trung và Nam Trung Bộ là địa bàn thuộc đồng bằng
các tỉnh, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận và Bình Thuận.
Trung Trung Bộ hội tụ các loại địa hình rừng núi, đồng bằng,
biển đan cài vào nhau. Rừng núi chiếm diện tích khá lớn, nhiều nơi núi còn nhô ra
sát biển, bao lấy cả ba mặt đồng bằng.
Về phương diện địa hình, các tỉnh thuộc Nam Trung Bộ là chuỗi
các đồng bằng nhỏ hẹp nối tiếp nhau, nằm kẹp giữa một bên là các cồn cát ven biển
phía Đông Nam và đồi núi ở phía Bắc và Tây Bắc của sơn nguyên Lâm Đồng và Đồng Nai.
Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, nếu dừng ở đồng bằng, ta có cảm giác núi non bao bọc xung
quanh, dạng như đồng bằng lòng chảo, ba mặt là núi, duy nhất một mặt phía Đông Nam
là biển. Địa hình núi non kể trên vừa che chắn gió mùa Đông Bắc và Tây Nam, góp
phần tạo nên khí hậu khô hạn vùng này.
Hệ thống sông ngòi cực Nam Trung Bộ đều bắt nguồn từ hệ thống
núi non ở sơn nguyên Lâm Đồng chảy xuôi về lòng chảo đồng bằng ven biển, như sông
Dinh, sông Pha, sông Cái, sông Ma Lâm, sông Quao… Sông chảy ngoằn nghoèo, độ dốc
không lớn, phù sa nghèo lắng đọng trong lòng chảo, ít đổ ra biển nên độ bồi phủ
của các con sông ở đây thường thấp.
Một kiểu cảnh quan đồng bằng được tạo nên chủ yếu bằng cát biển,
cùng với nó là kiểu khí hậu khắc nghiệt càng làm tăng thêm tính chất khô hạn của
vùng này.
Về mặt lịch sử, đây là vùng đất giao thoa giữa văn hóa Đông
Sơn và văn hóa Sa Huỳnh, giữa Sa Huỳnh với Chăm cổ, cùng như giữa Chămpa với Đại
Việt.
Với những hiểu biết hiện nay, các nhà khảo cổ học đã có thể
nói tới những dấu hiệu đầu tiên của con người ở vùng đất này từ thời đá cũ, với
di chỉ Gò Trá (Quảng Ngãi), tương đương với niên đại của văn hóa Núi Đọ (Thanh Hóa)
Hay Hang Gòn, Gia Tân (Đồng Nai). Tuy nhiên, phải tới hậu kỳ đá mới và sơ kỳ đồ
đồng với các di tích văn hóa Sa Huỳnh thì dấu tích con người ở vùng này mới thực
sự trở nên phổ biến.
Giới nghiên cứu đã nói nhiều tới
chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh là cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo, họ sinh sống ở ven
biển nước ta vào thời kì kim khí.
Quá trình Nam tiến của người Việt bắt đầu từ thời Nhà Lý đã
thực sự tác động tới quá trình lịch sử, bức tranh di cư và quá trình văn hóa của
miền Trung. So với những người di dân vào Nam Bộ, phương thức di dân của người Việt
vào miền Trung, có nhiều nét đặc thù.
Hệ quả của việc di dân của người Việt vào Trung Bộ là rất lớn.
Trước nhất, cùng với quá trình Nam tiến của người Việt, vương quốc Chăm pa ngày
một thu hẹp dần về phía Nam và tới thế kỉ XVI thì vương triều cuối cùng ở vùng Ninh
Thuận, Bình Thuận ngày nay cũng bị tan rã, chấm dứt 14 thế kỉ hình thành và tồn
tại. Tuy nhiên, vương quốc Chăm mất, nhưng dân tộc Chăm vẫn còn, con cháu của họ
hiện sinh sống ở cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Ngoài bộ phận hơn một triệu người Chăm
đang sinh sống với tư cách một tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, thì
không ít người Chăm đã hòa huyết với người Việt hay bị người Việt đồng hóa về văn
hóa, góp phần không nhỏ về dòng máu và văn hóa để hình thành nên cộng đồng cư dân
Việt ở miền Trung.
2.5.2. Đặc điểm về văn hóa
2.5.2.1. Văn hóa sản xuất
Cư dân miền Trung và Nam Trung Bộ vốn là cư dân văn hóa Sa Huỳnh,
cư dân tiền Chămpa, trước khi người Việt di cư vào vào vùng đất này, thì người Chăm
đã đạt được một số thành tựu về văn hóa sản xuất. Từ lâu, họ đã biết đắp đập khai
mương để trồng lúa nước mà đến nay vẫn còn các dấu vết các công trình thủy lợi trên dải
đất miền Trung như: Đập Do Linh (Quảng Trị), đập Nha Trinh và đập Marên (Ninh Thuận).
Họ còn có kĩ thuật canh tác ruộng nước khá cao, tùy theo loại ruộng như ruộng gò,
ruộng cát, ruộng sâu… mà họ có kĩ thuật canh tác và sử dụng các loại giống lúa ngắn
ngày, cho năng suất cao như loại giống lúa chiêm, lúa mùa.. .
Bên cạnh làm ruộng, người Chăm còn trồng nhiều hoa màu và cây
ăn trái, biết khai thác các loại gỗ mun, trầm hương, vỏ cây làm thuốc nhuộm…, khai
thác tài nguyên khoáng sản để đem bán. Người Chăm còn làm nghề biển, họ là những
thủy thủ can trường, là những người buôn bán giỏi.
2.5.2.2. Ẩm thực xứ Quảng
Nhờ đa dạng các loại địa hình núi, rừng, bờ biển, đồng bằng,
người dân đã khôn khéo tận dụng các sản vật sẵn có, khai thác từ địa phương. Nguyên
liệu chế biến thức ăn vì vậy phong phú từ hải sản với nhiều loại cá, tôm, mực đến
các loại nông sản thực phẩm như các loại lúa, nếp, khoai, bắp, rau củ, quả…
Không chỉ sáng tạo ra món ngon cho riêng mình, người dân xứ
Quảng xưa đã tiếp thu, học hỏi văn hóa ẩm thực người Chăm xưa, mà minh chứng điển
hình là kỹ thuật chế biến mắm. Người miền Trung ưa ăn mặn, cho nên bữa cơm không
thể thiếu chén nước mắm. Đặc biệt, người dân nơi đây rất ghiền mắm cái. Bên cạnh
việc thích ăn mặn, ưa ăn mặn, người miền Trung còn có thói quen ăn cay, không thể
thiếu ớt, nhất là ớt xanh.
2.5.2.3. Nghệ thuật
Hát sắc bùa là một thể loại âm nhạc đặc sắc của người dân miền
Nam Trung Bộ, diễn vào mùa xuân, đặc biệt là các ngày Tết, các bài hát sắc bùa mang
nội dung ca ngợi mùa xuân, ca ngợi chủ nhà và chúc chủ nhà một năm mới an lành thịnh
vượng.
Tuy rất gần gũi với nghệ thuật sân khấu phương Đông, tuồng Việt
Nam vẫn mang đậm bản sắc dân tộc. Tuồng kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật biểu diễn,
vũ đạo, giọng hát, hóa trang, âm nhạc, v.v… Tuồng mang tính ước lệ và cách điệu
sân khấu cao. Chính nhờ các yếu tố đó mà khi trên sân khấu gần như không có cảnh
trí gì, tuồng vẫn có khả năng diễn tả tinh tế mọi sự kiện xảy ra ở mọi không gian,
thời gian, địa điểm, thể hiện được mọi cung bậc tình cảm, mọi tình huống phức tạp
nhất trong cuộc đời…
2.5.2.4. Kiến trúc, điêu khắc Chăm
Kiến trúc, điêu khắc Chăm chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn
hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, họ đã gắn với nghệ thuật bản địa, làm cho nghệ thuật điêu
khắc và kiến trúc Chămpa cổ trở nên độc đáo, có tính chất điển hình ở Đông Nam Á.
Những đền tháp và các tác phẩm điêu khắc của người Chăm xưa đều tiếp thu của Ấn
Độ, vừa có sự tiếp thu của Khmer, của Java và cả của Đại Việt.
Kiến trúc Chămpa cổ còn lại chủ yếu là đền tháp. Tháp cổ Chămpa
ảnh hưởng từ Ấn Độ bởi nó mang hình núi Mêru thu nhỏ, theo bố cục: Hướng tâm, các
trục quay ra bốn hướng, mặt tiền quay về hướng Đông. Nhìn từ bên ngoài, tháp Chăm
là một là một cấu trúc nhiều tầng. Tầng dưới cùng làm cái vỏ cho gian điện, bên
ngoài có những hình ốp có trang trí nằm giữa hai bộ gờ trên và dưới. Các tầng tháp
nối nhau nhỏ dần lên tận đỉnh, mỗi tầng lại có các hoa văn và các lá nhĩ mang nhiều
phong cách khác nhau, ở tháp Pôklongrai, mỗi tầng lại có tượng Siva làm bằng đá,
và ở trên đỉnh tháp là một hòn đá hình bầu dục, đầu nhọn hướng lên trời.
Những khu đền tháp lớn của Chămpa tập trung ở các trung tâm
lớn như Thánh địa Mỹ Sơn, vùng Vijaya, vùng Kauthara và Pandurangara thờ các thần
của Ấn Độ giáo như Brahma, Visnu, Siva. Người Chăm gọi các tháp Chăm là Kalăn, có
nghĩa là đền lăng, và những cụm tháp đền thờ thần được kết hợp với lăng mộ và thờ
vua chúa: Tháp Pô Tầm ở Phan Rí (Bình Thuận) Thờ vua PÔTầm, tháp Pôrômê và tháp
Pôklongrai ở Ninh Thuận thờ vua Pôrômê và vua Pôklongrai. Như vậy, các tháp đền
khi đến với Chămpa không chỉ để thờ thần nữa mà kèm theo thờ phụng vua chúa, hay
nói rộng ra là thờ cúng tổ tiên. Một số tượng mặt vua như Pôklongrai, Pôrômê được
gắn vào linga (gọi là Mukhalinga) Và đặt thờ trong lòng các tháp.
Ngoài các khu kiến trúc phục vụ cho Bàlamôn giáo và Ấn Độ giáo,
Chămpa còn một khu kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Đồng Dương (Quảng Nam), một
tổng thể kiến trúc nằm trên một ngọn đồi cao 500m, có chiều dài từ Tây sang Đông
là 1330m, trong thung lũng còn lại rất nhiều dấu vết của những ngôi chùa hay những
tu viện Phật giáo.
2.5.2.5. Tôn giáo, tín ngưỡng
2.5.2.6. Lễ hội
2.5.2.7. Văn học
Truyện cổ tích xứ Quảng mang sắc thái những truyện cổ ở một vùng đất mới khai phá rất
rõ. Được hình thành khi xã hội con người ở nước ta đã được tổ chức theo chế độ phong
kiến độc lập, nên trình độ chinh phục thiên nhiên của con người đã tiến bộ khá cao,
vì thế các yếu tố thần thoại không còn để lại nhiều dấu vết trong các truyện cổ.
Các truyện cười ở đây phần lớn đều nhằm vào giai
cấp thống trị trong xã hội phong kiến, mà những nhân vật tiêu biểu như quan tri
huyện, nhà sư, thầy cúng thường hay bị đem ra chế giễu nhất: “Truyện cười
Thủ Thiệm”.
2.6. Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên
2.6.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên bao gồm địa bàn các tỉnh
Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng, vùng núi các tỉnh Thừa Thiên, Quảng
Nam, Đà Nẵng và các khu vực kế cận thuộc vùng núi Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận. Trừ vùng núi Trường Sơn ở phía Bắc, còn lại Tây Nguyên là
vùng sơn nguyên, xen cài giữa các dãy núi cao trung bình với các cao nguyên đất
đỏ. Khí hậu vùng này phân thành mùa khô và mùa mưa rõ rệt.
Vùng Trường Sơn – Tây Nguyên là nơi quần tụ của hơn 20 tộc người
thuộc hai nhóm ngôn ngữ chủ yếu là Môn – Khơ me và Mã Lai – Đa Đảo. Các tộc người
tiêu biểu cho nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me là: Ba Na, Xơ Đăng, Mnông, Mạ, Xtiêng…;
Còn các tộc tiêu biểu cho nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo là Ê đê, Gia rai, Raglai,
Chu Ru. Về phân bố dân cư các tộc người, ta thấy hình thành nên bốn nhóm rõ rệt,
đó là: Các tộc thuộc nhóm Ka Tu – Bru (Bru, Ka Tu, Tà Ôi) Phân bố chủ yếu ở vùng
núi Nam Trường Sơn, các tộc thuộc nhóm Ba Na – Xơ Đăng phân bố chính ở Bắc Tây Nguyên,
các tộc nhóm Mnông - Mạ cư trú ở Nam Tây Nguyên, còn các tộc Nam Đảo thì đan xen
vào hai nhóm Ba Na – Xơ Đăng và Mnông - Mạ, sống chủ yếu ở trung tâm Tây Nguyên
thuộc địa bàn tỉnh Đắc Lắc.
Cư dân Trường sơn – Tây Nguyên là cư dân bản địa.
Từ cuối thế kỉ XX, người Việt di cư lên Tây Nguyên ngày càng
đông, chiếm tỷ lệ trên 50% tổng số dân cư, tạo nên vùng xen cư giữa các tộc bản
địa và người Việt và các nhóm tộc người thiểu số từ miền núi phía Bắc di cư tới,
khiến thành phần tộc người ở Tây Nguyên lên tới hơn 40 tộc người khác nhau.
2.6.2. Đặc điểm về văn hóa
2.6.2.1. Văn hóa sản xuất
Một đặc trưng cơ bản nhất quy định nên sắc thái của văn hóa vùng Trường
Sơn – Tây Nguyên là nếp sống nương rẫy. Nếp sống đó thể hiện trên nhiều phương diện
như kinh tế, quan hệ xã hội, phong tục, tín ngưỡng… Về kinh tế, cư dân ở đây có
truyền thống làm nương rẫy trên vùng đất khô của sơn nguyên. Phương thức canh tác
này khiến con người hoàn toàn phụ thuộc, phải thích ứng với những thay đổi của điều
kiện tự nhiên và khí hậu. Do đó, đời sống của con người khá bấp bênh, thiếu thốn.
Về phương diện xã hội, nếp sống nương rẫy duy trì các quan hệ xã hội cộng đồng,
cộng đồng gia tộc mẫu hệ, cộng đồng công xã làng buôn, các
quan hệ bình đẳng, dân chủ của xã hội nguyên thủy, xã hội chưa phân hóa giai cấp
và thiết lập chế độ người bóc lột người. Nếp sống nương rẫy tạo cho con người gắn
bó với môi trường rừng núi, đó là môi trường sống, sinh tồn của mỗi con người, mỗi
làng buôn, nó là tác động tới đời sống vật chất, cũng như thế giới tinh thần của
con người.
2.6.2.2. Trang phục
Điều dễ nhận thấy là cư dân ở đây đều ưa mặc y phục thuộc loại
choàng quấn. Đây là loại trang phục cổ xưa của cư dân vùng Đông Nam Á mà ngày nay
không còn nhiều nữa. Đó là các loại khố, váy mảnh (váy không khâu thành ống), tấm
choàng, các loại áo chui đầu… Người ta cũng rất chuộng các hình thức trang trí trên
cơ thể vừa cho đẹp, vừa mang tính nghi lễ, như xăm mình, cà răng, căng tai, đeo
các loại vòng, kể cả vòng ống ở tay, chân, cổ. Cũng như nhiều dân tộc thiểu số khác,
họ ưa thêu và dệt hoa văn trên váy, khố, tấm choàng, áo… ví như chiếc khố của người
đàn ông là cả một công trình dệt, thêu và trang
trí các tua bông ở hai bên diềm. Tuy nhiên, phong cách trang trí (hoa văn và bố
cục) Của cư dân vùng Trường Sơn – Tây Nguyên lại hoàn toàn khác biệt với các dân
tộc vùng Việt Bắc, Tây Bắc.
2.6.2.3. Nhà ởỞ Trường Sơn, người ta thường thấy các ngôi nhà
công cộng
(gơl) Với mái tròn khum mu rùa, đầu hồi trang trí con chim thần
mang phong cách Đông Sơn, ở Bắc Tây Nguyên là những ngôi nhà Rông (nhà Rông trống
và nhà Rông mái) Dáng mái cao vút hình lưỡi rìu, vượt hẳn lên mái các ngôi nhà sàn
trong làng; Trên mái nhà Rông, cầu thang lên xuống, trong nhà trang trí nhiều mô
típ hoa văn. Còn ở Trung và Nam Tây
Nguyên, đặc trưng bởi các ngôi nhà dài, xưa kia có ngôi nhà
dài hàng trăm mét, “dài như một tiếng chiêng
ngân”, “dài hơn một
thôi ngựa chạy”, trong đó sinh sống nhiều gia đình và một phần của
ngôi nhà
(gar) Dành cho sinh hoạt cộng đồng. Ngôi nhà của người Ê Đê
mang hình dáng con thuyền, trên cột nhà, cầu thang lên xuống trang trí hình cối,
chày, mặt trăng, bầu sữa…
2.6.2.4. Đi lại
Ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, phương tiện đi lại và vận chuyển
quen thuộc với người dân là sử dụng voi và gùi hàng trên lưng.
Gùi là phương tiện vận chuyển phổ biến của người Tây Nguyên,
ai cũng có chiếc gùi cho riêng mình. Gùi có nhiều loại, dùng vào nhiều công việc
khác nhau, như trữ đồ đạc, mang đồ vật từ nơi này tới nơi khác, dùng khi săn, đi
chợ, đi thăm hỏi, đi nương rẫy… Gùi không chỉ là vật mang vác, còn là đồ mỹ thuật,
trên đó trang trí hoa văn đẹp, làm tăng thêm nét duyên dáng cho các cô gái, chàng
trai. Tùy theo từng tộc người mà hình dáng, đế gùi cấu tạo khác nhau, màu sắc và
trang trí hoa văn có nét riêng. Nét chung của gùi ở Trường Sơn – Tây Nguyên là gùi
quai đeo qua vai chứ quai gùi không tì vào trán như nhiều dân tộc ở miền núi phía
Bắc.
2.6.2.5. Tín ngưỡng, lễ hội
Bao bọc xung quanh thế giới thực của con người Tây Nguyên là
một thế giới huyền ảo, ở đó ngự trị các thần linh, ma quỷ và các linh hồn. Người
ta tin rằng mọi vật xung quanh đều có linh hồn (Yang), từ các vật dụng nhỏ như chiêng,
ché, ghế ngồi đến cây cỏ, các con vật, con sông, đồi núi… Có Yang tốt phù hộ cho
con người và có Yang xấu, nếu con người làm chúng không vừa lòng thì chúng có thể
làm hại đến con người và người ta có thể nhận biết Yang qua những giấc mơ.
Là cư dân nông nghiệp, dù là theo hình thức nương rẫy nhưng
trong đời sống tâm linh của cư dân vùng Trường Sơn – Tây Nguyên những tín ngưỡng
mang dáng nét nông nghiệp vẫn còn in đậm. Cùng với quá trình tăng trưởng của cây
lúa, họ có các hình thức lễ bái để cầu mong cho lúa tốt, mùa màng bội thu. Ví dụ,
sau khi lúa con gái được làm sạch cỏ, người ta tổ chức lễ cầu an, tạ ơn thần Sấm
đã làm mưa xuống và tạ ơn Mẹ Lúa Yang S’ri.
Một biểu hiện của tín ngưỡng nông nghiệp đó là các hình thức
hiến sinh.
2.6.2.6. Trường ca Tây Nguyên
Trong các sinh hoạt văn hóa dân gian của cư dân vùng Trường
Sơn – Tây Nguyên không thể không nhắc tới một loại hình sáng tác mang đậm chất Tây
Nguyên, đó là trường ca (sử thi). Người Ê đê gọi là Khan, người Mnông gọi là Ót
Nrông, người Ba Na gọi là Hơmon, người Gia rai gọi là Hơri, người Mạ gọi là Nôtông…
Người ta biết tới Tây Nguyên và những người con của vùng đất này qua các bản trường
ca như
Đăm San, Đăm Noi, Xinh Nhã, Khinh Dú, Đông Tư, Đămte Plan…
Trong thần thoại các dân tộc Tây Nguyên chứa đựng những quan
niệm thế giới và hệ thống các vị thần. Ở người Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Mnông đều quan
niệm vũ trụ hợp thành từ ba thế giới: Thế giới bên dưới, thế giới của con người
và thế giới của thần linh, mà ở người Ba Na cột cây Klao dựng ở nàh mồ chính là
hình ảnh thu nhỏ của ba thế giới đó. Với người Ê Đê thì mỗi thế giới như vậy lại
có các cặp thần linh trị vì: Mtao Kơ trị vì tầng trời, Mtao Tơlua và Ae Mơgơ Hăn
trị vì tầng đất và Băngdơbung trị vì tầng dưới đất.
2.6.2.7. Luật tục
Một hiện tượng đặc sắc nữa của văn hóa Tây Nguyên vừa mang tính
xã hội vừa mang tính văn hóa là luật tục. Cơ cấu xã hội các dân tộc Tây Nguyên
là cơ cấu công xã láng giềng, kiểu buôn, bon, plây (làng) Trong đó bao gồm các gia
tộc phụ hệ hay mẫu hệ, tàn dư gia đình lớn này còn thấy
rõ nét ở nhiều dân tộc. Xã hội xây dựng trên cơ sở công hữu và cộng đồng, điều hành
xã hội theo luật tục. Ở các tộc Gia Rai, Ê Đê, Mnông,
luật tục đã định hình, lưu truyền dưới hình
thức văn vần. Bộ luật Ê Đê đã được người Pháp sưu tầm và dịch
ra tiếng Pháp với 236 điều, bộ luật Gia Rai cũng được người Pháp sưu tầm
và dịch.
2.6.2.8. Nghệ thuật dân gian
Về âm nhạc, người ta thường nhắc tới nhạc cụ gõ, sự phong phú
và đa dạng nhạc cụ gõ của Tây Nguyên gắn liền với các chất liệu tự nhiên: Tre, nứa,
gỗ, vỏ bầu. Nhạc cụ gõ cũng là hiện tượng âm nhạc hóa âm thanh và tiết tấu của cuộc
sống lao động, mà đặc trưng ở đây là giã gạo chày tay, cây đàn tơrưng nước, tơrưng
gió, Klong – pút, đàn kôk… đều có nguồn gốc từ các dụng cụ đuổi thú trên nương rẫy.
Trong các nhạc vụ hiện có ở Tây Nguyên, có lẽ nhạc cụ gõ được dùng gắn với sinh
hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, sinh hoạt cộng đồng mang tính linh thiêng. Trong các nhạc
cụ gõ, cồng chiêng là nhạc cụ tiêu biểu nhất.
Trong nền nghệ thuật múa của các dân tộc Việt Nam, múa của các
dân tộc Trường Sơn – Tây Nguyên tạo nên một mảng màu khá phong phú và độc đáo, không
thể lẫn với các tộc người khác, dù là múa Chăm, Khơ me ở kế cận. Múa của Trường
Sơn – Tây Nguyên mang chất liệu khỏe khoắn, hồn nhiên, mộc mạc, kết hợp cả động
tác tay chân chứ không chỉ động tác tay mềm mại như ở nhiều vùng khác. Múa tập thể
thường là múa vòng tròn, trong ngày hội múa xoay quanh cột đâm trâu hay nhà rông,
thường di chuyển ngược chiều kim đồng hồ. Âm nhạc múa có tiết tấu, nhạc cụ là chiêng,
trống nên tạo cảm giác khỏe khoắn, trầm hùng.
Về nghệ thuật tạo hình, điêu khắc tượng nhà mồ là sáng tạo nghệ
thuật của người Tây Nguyên.
2.7. Vùng văn hóa Nam Bộ
2.7.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Về phạm vi, vùng văn hoá này bao gồm địa bàn 19 tỉnh thành:
Đồng Nai, Bình Dương, ̣Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí
Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, TP. Cần Thơ,
Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Về địa hình, đây là một vùng đồng bằng sông nước rất đặc trưng,
có diện tích và độ phì nhiêu cao nhất trong tất cả các đồng bằng nước ta. Toàn vùng
có đến 4.000 kênh rạch, dài tổng cộng 5.700km.
Hai hệ thống sông lớn nhất của vùng là hệ thống sông Đồng Nai
và hệ thống sông Cửu Long.
Về khí hậu, Nam Bộ là vùng tương đối điều hoà, ít bão, quanh
năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng
12 tới tháng 4.
Nam Bộ là vùng văn hóa trẻ, khoảng 5.000 - 4.000 năm trước,
người Indonesian đã đến đây khai phá, tạo nên văn hoá Đồng Nai. Từ thế kỉ thứ I
đến thế kỉ thứ VIII, người Indonesian và nhiều lớp người ngoại nhập (Thiên Trúc, Nguyệt
Thi, Nam Dương.. .) Tạo lập nền văn hoá Óc Eo ở đồng bằng Nam Bộ và Đông Campuchia,
dựng nên vương quốc Phù Nam hùng mạnh.
Ngoài trung tâm Óc Eo, nhà nước Phù Nam còn có một trung tâm
chính trị, văn hoá và tôn giáo nữa trên vùng đất Long An, nơi có tới 100 di tích
văn hoá Óc Eo với 12.000 hiện vật, đặc biệt là quần thể di tích Bình Tả, gồm ba
cụm di tích: Gò Xoài, Gò Đồn và Gò Năm Tước, có niên đại từ thế kỉ thứ I đến thế
kỉ thứ VII. Vào khoảng năm 550, vương quốc Chân Lạp tiêu diệt Phù Nam. Nền văn hoá
Óc Eo vẫn còn tiếp diễn ở một số nơi trên đồng bằng sông Cửu Long nhưng đến cuối
thế kỉ VIII thì tàn lụi hẳn.
Hiện nay, Nam Bộ là nơi cư trú của người Việt và các tộc người
thiểu số là cư dân bản địa: Xtiêng, Chơ Ro, Mạ, hoặc di dân: Khơ me, Hoa, Chăm,
Tày, Nùng, Mường, Thổ…
2.7.2. Đặc điểm về văn hóa
2.7.2.1. Tính cách Nam Bộ
Tính cách con người nơi đây nổi tiếng là cương trực, dũng cảm.
Cũng từ đặc điểm của mảnh đất phương Nam đã tạo cho con người
nơi đây có tính giản dị trong cuộc sống, do họ phải lặn lội giữa đồng nước, nắng
gió, nay đây mai đó trên sông rạch, bưng biền nên họ có thói quen không thích ăn
diện hay xây dựng nhà kiên cố.
Người dân nơi đây nổi tiếng về tinh thần lao động hăng hái,
có kỹ năng nghề, luôn biết sáng tạo cải tiến phương tiện cho phù hợp với điều kiện
làm việc.
Những người khai phá đất mới là những người coi nghĩa khí làm
đầu. Người Nam Bộ thích kết thân bạn bè cùng nhau chè chén, ăn chơi xả láng ồn ào,
nhưng sẵn trong họ một cái gì đó mang nặng âm điệu sầu tư, nên trong cuộc vui họ
ham mê ca xướng, hát bội, cải lương, nhất là các âm điệu vọng cổ chứa chất sầu vọng.
Đó là hai mặt của tâm lý con người Nam Bộ.
Họ là những người sẵn sàng tiếp nhận và hướng về cái mới, nhạy
cảm với cái mới trong cả việc làm ăn, vui chơi giải trí.
2.7.2.2. Ẩm thực
Đây là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất “làm chơi ăn thiệt”, con người dù nghèo hèn,
cơ cực nhưng vẫn không thiếu thức ăn, gặp gì ăn nấy, từ những cây cỏ trên bờ, con
cá dưới sông, con chim trên trời, cho đến các loài sinh vật khác. Tính hoang dã
trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã được định hình từ đây. Điều dễ nhận thấy
nhất ở tính hoang dã này là người Nam Bộ ăn rất nhiều rau, đây là loại thức ăn có
sẵn ở vùng sông nước, ao hồ, ruộng vườn rất dễ tìm không cần nhiều thời gian chế
biến, có loại chỉ cần hái vào rửa sạch là ăn được. Người ta có thể ăn các loại rau
từ rau đắng, rau dền, rau răm, cải xanh, tía tô, hành, hẹ, ngò gai… đến các loại
cây bông như: Bông điên điển, thiên lí, bông kim châm…
Nhưng nổi bật hơn trong tính hoang dã này chính là môi trường
của việc ăn uống, người Nam Bộ thường có thói quen chế biến món ăn và ăn ngay tại
chỗ. Món cá lóc nướng trui là một minh chứng cho điều này, hoặc một nồi canh chua
cá lóc được nấu ngay sau buổi tát đìa cũng thể hiện điều đó.
2.7.2.3. Trang phục
Về trang phục, do sống trong môi trường sông nước, nông dân
Nam Bộ, cả nam và nữ, rất thích chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn.
Phụ nữ Nam Bộ chải tóc kẹp hay búi tóc sau ót, tùy theo lứa
tuổi, tuy nhiên kiểu tóc búi vẫn là nét riêng. Để giữ cho búi tóc chặt, đẹp, các
bà các cô cài thêm trâm vàng hay lược cong để giữ cho búi tóc khỏi xổ. Cũng như
phụ nữ Huế, phụ nữ Nam Bộ thích đeo kiềng vàng, cũng có người giữ nếp đeo chuỗi
hột vàng quanh cổ như phụ nữ miền Bắc.
Nam Bộ là vùng đất mở, năng động nên nhanh chóng tiếp thu những
yếu tố văn hóa mới, đặc biệt ở lĩnh vực tìm kiếm sự đổi mới trong cái đẹp nữ phục
thành thị miền Nam. Hàng loạt biểu hiện của phong trào Âu hóa như sự xuất hiện của
váy cưới, áo sơ mi, quần Âu, quần jeans, quần ống loe, ống bé, thậm chí cả các kiểu
cách mặc hippy…
2.7.2.4. Nhà ởVùng đất Nam Bộ là vùng đất trũng có hơn phân
nửa diện tích ven biển là vùng đất lợ, điều kiện môi trường rất thích hợp cho các
loại cây sú, vẹt, đước, bần, tràm, dừa nước…sinh sống. Người dân ở đây đã tận dụng
các sản vật tự nhiên này làm vật liệu xây dựng cho ngôi nhà của mình.
Nam Bộ có ít bão tố, nhiều kênh rạch, con người phải dồn sự
chăm chút cho ghe xuồng và vườn tược nên nhà của khá tạm bợ. Một ít cây làm cột,
làm kèo, một ít lá dừa nước vừa lợp mái, vừa thưng vách là đã có một ngôi nhà ấm
cúng.
Nhà ở của người Việt Nam Bộ có ba loại chính: Nhà đất cất dọc
theo ven lộ, nhà sàn cất dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước. Nhà nổi
trên sông nước là nơi cư trú đồng thời là phương tiện mưu sinh của những gia đình
theo nghề nuôi cá bè, vận chuyển đường sông, buôn bán ở các chợ nổi, bán sỉ và bán
lẻ trên sông.
2.7.2.5. Đi lại
Người ta vẫn mệnh danh Nam Bộ là xứ sở của văn minh kênh rạch.
Kênh rạch tạo thành hệ thống chằng chịt bám chặt vào mọi nẻo của cả vùng, nó quy định
nhịp điệu làm ăn, làm gì, đi đâu, thậm chí thờ cúng, vui chơi người ta cũng tùy
thuộc vào con nước lên hay ròng. Ở xứ sở kênh rạch như vậy, con thuyền là phương
tiện đi lại chuyên chở chính yếu, bởi thế từ lâu dân gian có câu: “sắm xuồng là
để làm chân”.
Ở vùng sông nước thì dùng xuồng, ghe, tắc ráng, vỏ lãi, tàu,
bè, bắc
(phà), cộ.. . Ở trên đất liền thì các cư dân Nam Bộ dùng xe
bò, xe ngựa, xe đạp, xe thồ, xe tải.. . Trong thời Pháp thuộc, khi giao thông đường
bộ bước đầu phát triển, người Nam Bộ đã gọi các chuyến xe khách liên tỉnh, liên
vùng là xe đò. Nói chung, cho đến nay ở miền Tây giao thông đường thuỷ vẫn rất thông
dụng và thuận lợi, mặc dù giao thông đường bộ đã được cải thiện nhiều.
2.7.2.6. Tôn giáo, tín ngưỡng
Để thích nghi với điều kiện sống mới, người dân Nam Bộ ít khi
ràng buộc chính mình bởi những tư tưởng Nho giáo, những lề thói, khuôn phép phong
kiến lỗi thời, nhưng cũng chính vì đây là vùng đất mới, cư dân tứ xứ đổ về sinh
sống nên tạo điều kiện cho nhiều tôn giáo, tín ngưỡng bén rễ, đâm chồi. Điều này
tạo nên diện mạo hết sức đa dạng, phức tạp của đời sống tâm linh. Bên cạnh các tôn
giáo lớn từ ngoài du nhập vào như Đạo Phật, Gia Tô Giáo, Tin Lành, Islam, còn có
các tôn giáo, tín ngưỡng địa phương như Cao Đài, Hòa Hảo, Đạo Dừa, Đạo Ngồi, Đạo
Nằm, Đạo Câm, Đạo Đi Chậm, các tín ngưỡng dân gian như thờ tổ tiên, thổ thần, tứ
phủ, Neaktà, Arăk… Tính ra, số tín đồ các đạo đã hình thành các tổ chức thì ở đồng
bằng sông Cửu Long chiếm số lượng khoảng 1/3 cả nước.
Tôn giáo, tín ngưỡng Nam Bộ cũng nhạy cảm hơn với các vấn đề
đời sống chính trị, xã hội, nói cách khác, các thế lực dễ lợi dụng và kích động
tôn giáo, tín ngưỡng để phục vụ cho các mục đích của họ. Thực tế lịch sử ở đây,
từ Phật giáo, Gia Tô giáo, các đạo Cao Đài, Hòa Hảo, các hội kín mang tính chất
tôn giáo đều đã từng nhập cuộc trong các trào lưu chính trị và xã hội. Tính phức
tạp, đa dạng của tôn giáo, tín ngưỡng ở Nam Bộ còn thể hiện ở sự kết hợp chặt chẽ
và nhuần nhuyễn giữa chúng với các quá trình văn hóa và quá trình dân tộc.
2.7.2.7. Lễ hội
Lễ hội của người Việt Nam Bộ cũng rất đa dạng, bao gồm bốn loại:
Lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo (bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao
Đài, Phật giáo Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở
núi Sam, Châu Đốc…), lễ hội nông nghiệp, lễ hội ngư nghiệp (lễ hội Nghinh Ông là
sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân), lễ hội
văn hoá - lịch sử (Ở các đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ yên tiến hành
vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh, thần linh và các bậc tiền
hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp), lễ tết cổ
truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ.. ., các lễ hội tưởng niệm các danh nhân
có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt,
Trần Thượng Xuyên, và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn
Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn, Ngô Tán Đước, Nguyễn Thanh
Long, Trương Văn Rộng, Trần Công Thận.
2.7.2.8. Văn học nghệ thuật
Nam Bộ có một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú.
Đó là các truyện dân gian phản ánh sự nghiệp khai phá
đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử. Đó là kho tàng
ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý, các bài hát huê tình, hát ru em, hát
đồng dao, hát sắc bùa, hát thài, hát rối, hát vọng cổ, hát tài tử, v.v. Đặc biệt,
hát vọng cổ và hát tài tử rất được người Nam Bộ ưa thích.
Ngoài ra, Nam Bộ còn có một số thể loại văn học dân gian đặc
sắc khác là nói vè, nói tuồng, nói thơ. Truyện thơ và hình thức diễn xướng nói thơ
cũng là một hoạt động văn nghệ dân gian phổ biến tại Nam Bộ với các truyện thơ nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Phạm
Công - Cúc Hoa, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lâm Sanh - Xuân Nương, Thạch Sanh - Lý
Thông, Tấm Cám, Hậu Vân Tiên.. .
2.7.2.9. Giao lưu, tiếp biến văn hóa
Là miền đất mới tập hợp dân tứ xứ quy tụ về như vậy, nên trong
quá trình lịch sử trên 300 năm nay, ở đây đã diễn ra quá trình giao lưu văn hóa
sống động, tạo nên các nét đặc trưng của vùng văn hóa. Giao lưu ảnh hưởng ở đây
trước nhất là giữa các tộc người, giữa cư dân địa phương với nhau và giao lưu ảnh
hưởng với bên ngoài, như Campuchia, Mã Lai, Indonexia, Trung Quốc và với phương
Tây.
Câu hỏi ôn tập chương 2:
1) Tứ trấn nội kinh là gì? Giới thiệu giá trị văn hóa nổi bật
của tứ trấn nội kinh.
2) Phân tích giá trị văn hóa vùng Thăng Long – Đông Đô – Hà
Nội
3) Tại sao nói Tây Bắc được xem là ngôi nhà lớn có hai tầng?
4) Việt Nam có những vùng “đệm” văn hóa nào?
5) Chỉ ra vùng trung tâm và vùng ngoại vi trong các vùng văn
hóa Việt Nam?
6) Văn hóa vùng với tín ngưỡng thờ Mẫu
7) Văn hóa vùng với tín ngưỡng và lễ hội thờ cúng Cá Ông.
8) Văn hóa vùng với tính cách con người.
9) Trình bày ý kiến của anh/chị về nhận định vùng văn hóa Trường
Sơn – Tây Nguyên là vùng văn hóa mang tính chất đóng.
10) Trình bày ý kiến của anh/chị về nhận định vùng văn hóa Nam
Bộ và vùng văn hóa mang tính chất mở.
MỤC LỤC
Chương 1. Khái quát về lí thuyết vùng văn hóa (8 tiết)
1.1. Lược quan về khu vực học
1.2. Quan niệm vùng văn hóa
1.3. Các tiêu chí phân vùng văn hóa
1.4. Nghiên cứu bản sắc văn hóa vùng đối với việc phát triển
văn hóa Việt Nam
Chương 2. Các vùng văn hóa Việt Nam (22 tiết)
2.1. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc
2.3. Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ
2.4. Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
2.5. Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam Trung Bộ
2.6. Vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên
2.7. Vùng văn hóa Nam Bộ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Duy Anh – Lê Hoàng Vinh (2004), Lần giở lịch sử văn hóa
miền Thuận – Quảng, NXB Đà Nẵng
2. Huỳnh Công Bá (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Thuận
Hóa, Huế.
3. Trần Lê Bảo (2010), Khu vực học và nhập môn Việt Nam học,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
4. Ngô Văn Doanh (2002), Văn hóa cổ Chăm Pa, NXB Văn hóa dân
tộc, HN
5. Đỗ Hạ, Quang Vinh (2006), Những lễ hội truyền thống Việt
Nam, Nxb Thanh Hóa
6. Nguyễn Đắc Hưng (2010), Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, Nxb
Chính trị quốc gia
7. Đặng Văn Hường (2014), Tìm hiểu một số phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, tôn giáo các dân tộc vùng Nam Trung Bộ, Nxb Quân đội nhân dân
8. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát
triển bền vững, Nxb Từ điển bách khoa
9. Nhiều tác giả (2000), Chân dung văn hóa Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia
10. Nhiều tác giả (2004), Nam Bộ đất và người, Nxb Trẻ
11. Hà Nguyễn (2013), Tiểu vùng văn hóa xứ Đông, Nxb Thông tin
và truyền thông
12. Hà Nguyễn (2013), Tiểu vùng văn hóa xứ Quảng, Nxb Thông
tin và truyền thông
13. Chu Thái Sơn (2005), Người Thái, Nxb Trẻ
14. Lê Bá Thảo (2002), Việt Nam - lãnh thổ và các vùng địa lí,
Nxb. Thế giới, Hà Nội.
15. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội
16. Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa
ở Việt Nam, Nxb.
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Tổng cục du lịch Việt Nam, Trung tâm công nghệ thông tin du lịch (2004), Non nước Việt Nam,
Nxb Văn hóa thông tin
18. Nguyễn Thanh Tuấn (2010), Đa dạng văn hóa và quyền văn hóa
hiện nay ở Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa
19. Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
20. Viện Văn hóa – Thông tin, Phân viện Nghiên cứu văn hóa –
thông tin Huế (2004), Tiếp cận văn hóa nghệ
thuật miền Trung (2 tập), NXB VHTT, Huế.
21. Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
22. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam - cái nhìn địa văn hóa,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Nhận xét
Đăng nhận xét