Chuyển đến nội dung chính

TIẾNG VIỆT MẤY VẤN ĐỂ NGỮ ÂM -NGỮ PHÁP - NGỮ NGHĨA

NHÀXUẤT BẢN GIÁO DỤC

GIÁO TRÌNH

TIẾNG VIỆT MẤY VẤN ĐỂ NGỮ ÂM -NGỮ PHÁP - NGỮ NGHĨA



MỤC LỤC
Lời nói đầu
PHẦN THỨ NHẤT NGỮ ÂM
Vấn đề âm vi trongr tiếng Việt
Nguyên lí “tuyển tinh của năng biểu” trong âm vi học
Chiết đoạn và siêu đoạn trong ngôn ngử học phương Tây Và trong tiếng Việt
Hai cách miêu tả hệ thống thanh diệu tiếng Việt
Về cách phân tích âm Vi học một số vận mẫu có nguyên âm ngắn trong tiếng Việt
Thêm mấy giải pháp âm Vi học cho các vận mẫu có nguyên âm ngắn của tiếng Việt
Sốphận các vấn có nguyên âm hẹp qua các phương ngữ iởn của Việt Nam
Hai vấn đề âm Vi học của phương ngữ Nam Bộ
Nhận Xét về các nguyên âm của một phương ngữở tinh Quảng Nam
Trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt
Mấy nhận Xét về chủ' quốc ngữ
Về cách viết và cách đọc các tên riêng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt
PHẦN THỨ HAI: NGỮPHÁP
Tôn ty trên trục đối vi và tôn ty trên trục kết hợp
Về cương Vi ngôn ngữ học của “tiếng”
Chức năng định danh và cương Vi của từ
Một số biểu hiện của cách nhìn Âu châu đối với cấu trúc tiếng Việt
Hai ioại danh từ của tiếng Việt
Sự phân biệt đơn vi/khối trong tiếng Việt trà khái niệm ”loại từ”
Về cấu trúc của danh ngữ trong tiếng Việt
Ngữ đoạn và cấu trúc của ngũ' doạn
Đi bao giờ và bao giờ đi
C Mấy tiến để cho việc phân tích cú pháp tiếng Việt
Trương Vĩnh Ký
PHẦN THỨ BA.- NGỮ NGHĨA
Biển thể và hàng thể
Nghia của máy ngải trong câu thơ“râu hùm, hàm én, máy ngãi”
Khéo, không khảo và làm như... không bằng
Nghiễ hiển ngôn và nghĩa hàm ẩn
Tiến giả định và hàm ý trong một sốvi từ tỉnh thải của tiếng Việt
Cuốn sách mà bạn đọc đang cầm trên tay tả một vựng tập gồm những bài tạp chí, những bài báo cáo tại một số hội nghị, những bài giảng soạn cho sinh viên, viết từ năm 1956 cho đến năm 1997, trong,  đó phần lớn đã được công bổtrẻn các sách và tạp chí xuất bản trong nước và đôi' khi Ở nước ngoài.
Trong sách còn có những bài đã viết từ tàu nhưng chưa được công bố do những thầu kiện xuất bản trước kia, và một vát đoạn trích từ một cuốn sách chưa có dịp được xuất bản trong nước. Tất cả các bài củ đầu đã được bổ sung (nhất tà khôi phục tại những đoạn trước đây phải tược bộ do vượt quá khuôn khổ của tạp chí hay của vựng tập hữu quan, và được chính lý lại ít nhiều, mong cho nó được cập nhật hơn, hay ít ra cùng thời. Cho nên trong một số bài có thể có những chỗ được hành văn cách khác di hoặc thẫn những tài tiệu mang niên đại muộn hơn năm xuất bản của chính những bài ấy.
Nghe theo tời khuyên của nhiều bạn đồng nghiệp và sự khuyến khích dấy thiện ý của Nhà xuất bằn Giáo dục, tôi đã xin cho xuất bản tập sách gồm những văn bản khá đa dạng này để tập hợp tại thành một tập duy nhất những kết quả của hơn bốn mươi năm học hỏi, suy nghĩ Và tìm tòi về một số vấn để cơ bản của tiếng Việt, hy vọng cung cấp cho những bạn nào quan tâm, nhất tả trong giới sinh viên và nghiên cứu sinh những tài hệu có thể giúp các bạn ấy theo được những quá trình lao động đã đưa tôi đến những chủ trương và quan niệm ngày nay.
Trong gần nửa thế kỷ qua, do những đòi hỏi cần thiết của công cuộc xây dựng một đất nước đang tiến lên từng ngày. ngành Việt ngữ học đã không ngừng phát triển nhanh chóng, với một đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy dông dão đủ sức xây dựng một nền ngôn ngữ học xứng đáng với vai trò “hoa tiệu của các ngành khoa học nhân văn”.
Tuy vậy sự “đủ sức”  - tức là cái khả năng ấy - hình như chưa đưa tại được những kết quả thực tế xứng đáng với nó. Những kết quả mà ta đã thu được, nhất tả trong nhà trường, có tê còn rất xa mới đạt được đến cái mức mà tit Theo n'ồ nghị của tác giả, chúng tôi giữ nguyện cách viết 1' và y trong các bài của tập sách này (Nhĩ). tất cả chúng ta riếu mong ước. Chất tượng của học sinh và sinh viên trong môn tiếng Việt vẫn chưa cao, thậm chi còn cho thấy một xu hướng xuống cấp khá rõ rệt,Tinh hinh độ thôi thúc mọi người đi tim cho ra những nguyên nhân của nó. Sốgiờ quá it dành cho môn học, tiặc biệt iã dành cho giáo viên sứn bài, trinh dộ hiếu biết tiếng Việt và ký nãng giảng dạy của giáo viên, phương pháp trình bày và phân phối những tri thức cần truyền thụ, sự thiến iộch về tỷ thuyết kinh Viện, V. V. đầu có ưi tri trong những nguyên nhân đã đưa đến tinh hinh ấy. Nhưng Ở đây tôi muốn tưu ý các bạn đồng nghiệp, trong đó phần iởn tà những người thấy, đến một nhân tố khác thiết thân với bậc đại hoc và với những người nghiên cứu hơn: do' tạ nội dung của những tri thức về tiếng Việt mà ta cung câp cho học sinh và sinh viên, trong đó có những người sau này sẽ giảng dạy ở đại học và soạn sách giáo khoa cho trung học.
Nếu nhiệm vụ của người nghiến cứt.I và giảng dạy tiếng mẹ đẻ tả tim hiếu và trinh bày một cách hiển ngôn những tri thức mà người bản ngữ có được một cách mặc nhiên để nói tiếng Việt như họ vẫn nói hàng ngày, thi sách vở và bài giảng của chúng ta chưa tâm tròn được nhiệm vụ ấy, Cái vốn tri thức vô cùng phức hợp và phong phủ được gọi ià ”biết tiếng Việt” hay ”dùng được tiếng mẹ đề” có một đặc trưng khá kỳ tạ: một mặt, đỏ tả một tri thức hoàn hảo và tuyệt đổi, nhưng mặt khác, đó iại ià một tri thức mặc ẩn và gần như bất tự giác. Tuy trong những điều kiện giao tiêp tự nhiên của sinh hoạt hàng ngày, người Việt đầu hiếu thấu đáo và biết sử dụng tiếng mẹ. để theo đúng những quy tắc của nó đế diễn đạt những gì minh cần diễn đạt, và có phản Ứng ngay khi nghe hay đọc thấy một câu sai quy tắc, nhưng họ iại không thể nói ra được những quy tắc nào buộc mình phải nói như thế, và mới khi thấy một người khác nói sai hay viết sai, cũng không thế nói rộ người ấy Vi phạm nhưng quy tắc nào. Cho nên công việc của người dạy tiếng chính tả giúp người học nói ra được một. cách thật hiến ngôn và chính xác những tri thức ngôn ngữ học vấn hàng ngày chi phối iởi ăn tiếng nói của họ một cách mặc nhiên nhưng hết sức nghiêm ngặt.
Đọc một số sách giáo khoa viết về tiếng Việt tơi nhiên không phảitất cả), ta có thế hiếu được sự háo hức và niềm tin tưởng hân hoan của người học trước những tri thức được nhưng người thầy đầy uy tin trinh hãy như những chân ty hiến nhiên, hay tả một cái gi cÒn cao hơn cả chân iỷ, mà họ có bổn phận háp thụ và truyền hại cho hậu thể như một di sản thiêng liêng.
Nhưng chính cái tinh thần truyền thự dựa trên uy tin của người giảng và niềm tin của người học ấy có một khia cạnh mà ta không thấy có ở các ngành khoa học chinh xác và các khoa học tự nhiên: nó không cho người học biết tâm thế nào để di tới cái chân iý ấy, và qua một vài năm học ngôn ngữ học, ho mất dẫn cái nhu cầu được người thấy thuyết phục và, đến lượt minh, biết cách thuyết phục người khác qua một quá trình chứng minh nghiêm ngặt từng định ty một với sự xác nhân thường xuyên của những sự kiện thưc tế của tiếng mẹ đẻ, mỗi khi tiếp thu một tn' thức mới về ngôn ngữ. Vĩ trong cách giảng dạy của ta, mỗi trí thức thưởng được trình bày như một sắc lệnh, một chân lý tuyệt đối và hiển nhiên đến nổi không cần gì phải chứng minh cả, và cả những khái niệm cơ bản được vận dụng cũng không được định nghĩa một cách dủ hiển ngôn để người học có thể tự xác định tấy Hột hàm và ngoại diên của nó. Làm như vậy có một tơi thể rất lớn cho người truyền giảng: hôm nay có thể truyền giảng một nhận định P, rồi đến bài' sau thay năm học sau, hay khi chuyển cấp), tại có thể truyền giảng một nhận định Q hoàn toàn trái ngược với P mà không cần phân bua gì cả - như ta vẫn thấy diễn ra đều đều hằng năm, và cả ng ngày càng tăng tần số. Hợc sinh đã quen chấp nhận sự thể ấy từ tàu. Vả lại cái chân tý P có bao giờ được chứng minh dấu mà phải phân bua khi thay nó bằng một chân tý Q ngược lại?
Dĩ nhiên, có những người có dữ tài năng để nắm bắt được chân tỷ tuyệt dốt ngay từ đầu, không cần căn cứ vào bất kỷ nguyên lý ngôn ngữ học nào, và có đủ uy tín để học trò tin những điều mình nó.” ra hôm nay dù nó có quan hệ logic ra sao với điều đã nói hôm qua, như thể đó tà những chân lý dộc tập. Và chừng nào người thấy còn có mặt bên cạnh, người sinh viên có thể yên tâm với niềm tin ấy, rồi đến khi họ ra trường và đến tượt họ truyền đạt những chân lý ấy, niềm tin vẫn còn nguyên sức mạnh để làm cho thế hệ sau vững tâm mà tin theo.
Tuy vậy, nếu ra tăng nghe những tời tâm sự của một số không nhỏ những học sinh, sinh viên, giáo viên, và cả phụ huynh học sinh nữa, ta thấy có một điểm chung rất có ý nghĩa: tất cả những người ấy hầu như không bao giờ dám tự mình tìm ra một thí dụ mới để minh hoạ cho những quy tác đã được học, một phần tà vì cảm thấy nó không ăn nhập tắm với những sự kiện cụ thể của thứ tiếng mà mình hiểu và sử dụng hàng ngày, hai tà vì e rằng nó sẽ gây ra những cuộc tranh cát trong đó không bao giờ có ai thuyết phục được at', bớt tẻ chưa từng có ai được học cách chứng minh hay phản bác một mệnh dễ ngôn ngữ học được coi là chân tý thay ít nhất cũng được coi tà chân ty trong học kỳ này, chứng nào thấy chưa truyền giảng một chân tý ngược tại), và nhiều khi ngay cả vị thầy truyền giảng hai cái chân ty ấy cũng chưa bao giờ nảy ra cái ý tìm hiểu xem mình căn cứ trên nguyên ty nào của ngôn ngữ học và những sự kiện nào của tiếng mẹ đề để phát minh ra những chân lý ấy; chỉ bằng cử học thuộc tòng tất cả các thí dụ - một việc rất dễ làm, vì số thí dụ trnng sách thường ”bất quả tam”.
Đảng to nhất tà mươi năm hay vài mươi năm nữa, khi các bậc thấy mà uy tín tấy từng có thừa sức thuyết phục để miễn dùng đến những tới chứng minh tầm thường và tẻ nhạt của môn ngôn ngữ học, khi các vi ấy không còn nửa, thi các thế hệ sau biết dựa vào đâu.P Con đường mà tôi đã đi thư từ bốn mươi mấy năm nay iần theo một hướng hơi khác, chẳng qua cũng do những sự tinh cờ.
Số tà năm 1956, do nhu cầu của Khoa, tôi đang giảng Ở tổ Lý iuận Văn hỌC thi` được điều sang giảng ngữ âm học tại tổ Ngôn ngữ học, theo đề nghị của Ông Phan Ngch (vốn biết rằng hội học ở trường Providence (1940-1945), tôi hay đọc sách ngữ âm tiếng Anh để nhại cho thật giống tu sĩ Michael, một Ông thấy người Anh không nói được tiếng Pháp, mà khi nói tiếng Anh thi cả tớp không ai hiểu được một tiếng nào (do tối của Ông thấy người Pháp dạy chúng tôi năm trước). Thế ià tôi bắt đầu ngày đêm vừa học vừa dạy ngữ âm hợt.” đại cương và ngữâm tiếng Việt.
Âm vi học (quạ mấy cuốn sách của Kenneth Lee Pike) buộc tội tần từng bước một qua hàng trăm bài tập thực hiện các “thủ tục”  (procedures) kỳ khu và nghiêm ngặt của qua' trinh phân tich và giải thuyết các cứ tiệu tiếng Kạiạbạ (một thứ tiếng bia đặt ra để soạn bài tập cho sinh viên] và dần dần, sạu nhiều năm vừa học vừa hàm, hiểu ra một vài nguyên tý cơ bản nhất của cái hệ thống kỳ cục có hai mặt mà hề quên đi một, dù chỉ trong khoảnh khắc, thi` lập tức bị đá váng ra khỏi ”tính vực tuân bản" (the Universe of Discoursei và bắt đầu nói nhám.
Sau đó tôi tại được chuyển sang nghề dịch trong hai mươi năm ( 1958-1978). Đây tả một thời kỳ có tác dụng quyết định. Tôi đã dịch hơn 30.000 trang từ hai ba thứ tiếng châu Âu, sách tý tuận văn học có, sách ngôn ngữ học có, nhưng phần fởn tà tác phẩm Văn học.
Ngay từ khi dịch những tác phẩm đầu tiên tôi đã nhận ra một điều tối quan trọng dối với tôi trong cái nghề khó khăn này: muốn nói được thật đúng và thật đủ những diều mà tác giả muốn nói trong nguyên Văn, bằng chính Cái giọng của tác giả, với đúng những ngụ ý bởn cợt hay mỉa mai. ngọt ngào hay chua chất của nguyên bản, người dichra tiếng Việt phải dùng những phương tiện rất khác với các phương tiên mà các thứ tiếng châu Âu Vẫn dùng. Muốn cho bản dịch giống một tác phẩm Văn học viết bằng tiếng Việt chứ không phải một bản tường thuật không hồn do một Ông Tây mới học tiếng Tạ hay một Ông Tạ mới học tiêng Tây ngồi ghép chữ mà thành, người dich phải hiểu thật dúng`và thật chỉ cái ý mà tác giả muộn truyền đạt, rồi tim một phương tiện tối ưu mà tiếng Việt có thể dùng và phải dùng dểtruyền đạt tại cái ý ấy.

Trong khi làm việc, tôi hàng hoàng nhận ra rằng tôi gần như hoàn toàn không biết Chút gi về ngữ pháp tiếng Việt, ngay cả sau khi đọc kỹ những sách dạy ngữ pháp tiếng Việt. Những điều mà tôi suy ra được tư mở kinh nghiệm 


===================

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

sách giáo trình công nghệ thông tin pdf doc - sách tham khảo

[-] Mục Lục 1 kế toán doanh nghiệp với visual basic https://ambn.vn/product/35662/ke-toan-doanh-nghiep-voi-visual-basic.html Những kiến thức cơ bản về kế toán như biểu mẫu, báo cáo, sổ sách chứng từ kế toán đã được trình bầy ở những bộ sách trước cùng tác giả, và coi như ở tập sách này là bạn đã nắm rõ về microsoft access và visual basic. Trong sách này, sẽ hướng dẫn bạn thêm khi thiết kế các giao diện nhập dữ liệu, xử lý và báo cáo trong chương trình kế toán, hiểu rõ những kỹ thuật và công cụ lập trình nâng cao và dễ dàng thiết kế thành công một chương trình quản lý kế toán doanh nghiệp bằng Visual Basic 2. lập trình cơ sở dữ liệu visual basic sql server https://ambn.vn/product/35577/lap-trinh-co-so-du-lieu-visual-basic-sql-server.html Cuốn sách này cung cấp cho người học những thông tin chi tiết cảu các công cụ kỹ thuật hiện nay như ADO, ADO MD và ADOX, MSDE, .. SQL Namespace.. Mục tiêu cuốn sách là cung cấp các kiến thức ở mức độ chuyên sâu những công cụ mà kết hợp giữa

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long

Đề tài: Hoạt động marketing của công ty cổ phần bút bi Thiên Long Mục Lục Lời mở đầu Chương I : Phân tích kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Kết quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long trong thời gian qua II.Đánh giá hoạt động marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long thời gian qua Chương II : Phân tích môi trường marketing của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long I. Phân tích môi trường marketing vĩ mô II.Phân tích môi trường marketing vi mô III. Phân tích môi trường marketing nội bộ IV. Phân tích swot Chương III. Phân đoạn thị trường của công ty cổ phần tập đoàn Thiên Long với sản phẩm bút bi Thiên Long I. Vị trí hiện tại của doanh nghiệp II. Xác định đối tượng khách hàng hay thị trường cần phân đoạn III. Phân chia thị trường theo những tiêu thức thích hợp IV. Đánh giá tiềm năng của các đoạn thị trường V. Lựa chọn các phương thức marketing nhằm khai thác các đoạn thị trường mục tiêu Chương IV. Xác định chiến lược M

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRỲ TỈNH CAO BẰNG HỌC VIÊN: BẾ THỊ DIỆP – HƯỚNG DẪN KH: TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT CHUYÊN NGÀNH: ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁO TRONG GIÁO DỤC MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu 6. Khung lý thuyết của đề tài 7. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.2. Các công trình trong nước 1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 1.2.1. Hoạt động học tập trong nhà trường 1.2.2. Loại hình nhà trường PTDTNT 1.2.3. Đặc trưng học sinh THPT DTTS 1.2.4. Các khái niệm công cụ của đề tài 1.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG Chương 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 2.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.1. Tổng thể