Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch?
Tóm lược sự việc như sau: Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số
12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC, trong khi nạo vét sông Tô Lịch, thuộc địa phận làng
An Phú - Phường Nghĩa Đô - Quận Cầu giấy - HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất
lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác
đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài
ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi,
Ngựa, dao, tiền đồng.
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên
Bát Bạt -Hà tây (là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP. Hà nội),
thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi
công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông; Nào là một số người
đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài
và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ; Địa tầng của cả khu vực thi công
tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào
khu vực đó thấy kim la bàn quay tít.
Một năm sau sự việc trên, có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy
ra, gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12, là đội đă trực tiếp thi công khu
vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn
vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết,
bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám
tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do,
cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.
Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ
đến giải thích, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ
được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân
lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã
cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch: Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng
tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết.
Các nhà khoa học đã có những đánh giá
sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục
các sự việc trên.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau: “ Trước đây, cổng
Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn) Và có yểm
bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông
qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên
đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý - Trần
Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc.
Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi
dòng và mắt nhà
Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương
người cùng những hiện vật khác chăng. (Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự
tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam - Người viết). Đó là một phần
của những gì đã đăng tải trên tờ báo. Gần đây, một người bạn của tác giả có cho
biết:
Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại
hiên trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người
viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí.
Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì? Theo thiển ý của
người viết: Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là
trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau: Trước hết nói về ý kiến
của GS Trần
Quốc Vượng; Người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm
sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà
cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý - Trần. Nếu theo Truyền thuyết “ Tại sao sông
Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại “ hay truyền thuyết ” sự tích Ông Dầu bà Dầu
“, tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông
bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến
nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội.
Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền,
là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy
Việt nam tài giỏi như: Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính
tư 808), Sư La chân Nhân (852 -936), Sư Vạn Hạnh..
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm
sông Tô Lịch và
Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng
hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt
đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch
sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược: Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có
tên là Tống Bình.
Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822), Vua Mục Tông
nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược
sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói
nói rằng: Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao
đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ.
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873), Cao Biền được cử sang đất
Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng, vừa
là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được
Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm: 866,867,868. Theo
truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện
tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm
khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể
hoàn tất.
Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam.
Đó là “ Truyền thuyết Thành Cổ Loa “ Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa,
An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách
cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong”.
Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo
đường chim bay chỉ vài chục km).
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi: Có sự trùng hợp giữa hiện tượng
sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể
khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch?
Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị
đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch
kéo dài đến Cổ Loa - Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không
ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng: Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội.
Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các
tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU.. . Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch
xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn.
Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng
biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao
là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng
có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây
bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường
đi theo nước), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của
dòng sông Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh - HÀ NỘI và còn theo
hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp.
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ
trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan
đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động
của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này: Đầu tiên là truyền thuyết
Cao Biền chấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung
để chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung
đó tại khu vực Hà nội.
Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng.. . Chôn để chấn yểm
đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn
tràng, dùng 4 thứ kim loại: Sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông
Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô
Lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu
biết rất giỏi về Nho, Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao
Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH
ở núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa
phép của Cao Biền.
Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều
lý do để có thể kết luận rằng: Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của
các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức
là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010). Nếu xét về niên
đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có
sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt
xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông
Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính,
người ta vẫn sử dụng các thủ thuật: Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt.. .
Để chữa bệnh.
Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh
mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí
Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta
dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu
khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm
cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ
phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng: THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi
vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải
nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có
những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một
cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng
có thể suy ra một hệ quả rằng: Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ
thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền
đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau:
1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền -Tiết
độ sứ của nhà
Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành
Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm. Đạo
Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết
Ông Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.
2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của
thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất
là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô
Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa - Đông Anh - HÀ NỘI; Long mạch này
còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là
nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng
minh tiếp.
3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp trấn yểm Long mạch, nhằm bế
dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong
đông y học.
Đến đây, ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi:
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công
nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào?
2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới
tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại
trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn
yểm lên.
3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với
khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói
chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la?
4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào? Người ta có
thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không? Trường
hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt?
Người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên.
Vì tình yêu đối với HÀ
NỘI, quê hương của người viết, vì trách nhiệm một người Việt
nam đối với quê hương rất mong được cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải
pháp khắc phục hiện tượng kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ
phải của riêng ai.
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau:
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân
trong đội xây dựng số 12
-Bản chất của hiện tượng đó như thế
nào?
Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích,
nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là
chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn
tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể
hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất
Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu: Tụ là hình tán là Khí.
Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học. Các
dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh,
Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng: Khí
vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi
là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh
không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí
Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn
biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác
là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người, còn trong Phong
Thủy, người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch,
huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển,
nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ
mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn). Người viết
chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình,
còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối
quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào? Theo
Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp
xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất
yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện
tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có
thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng
hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic
hình thái huyết thống.
Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch:
Người viết cho rằng: Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt
vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm
cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng
đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng
là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta
có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một
đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau
chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều
rằng: Thành phố Hà nội
ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le.. . Mặt khác sông Tô Lịch và
Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho
TP. HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là: Nếu như Cao Biền (vốn được coi là
tổ sư của Phong Thủy) Đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao
cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại (mặc dù chỉ là con mương nhỏ).
Theo người viết, nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên
của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định: Cao Biền có sự sai lầm trong
việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng
chính xác của các vị Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong
Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các
sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra
cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết như sau: Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên
Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch
máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh.
Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều
rằng: Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường
Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực
đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng
về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có
gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng
của Quy luật “ Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương
cầu “, hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người
công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải, mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công
trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.
Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là: Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh
hưởng như thế nào đối với TP. HÀ NỘI? Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.
2. Trả lời cho câu hỏi: Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao biền,
vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và
từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long
mạch tương tự nữa, ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa
trấn yểm đã được nhổ lên?
Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên: Khi đường Khí
của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ
trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng
đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu
của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng
địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là
một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi
đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với
một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như
bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng: Khi Nguyên khí thâm
nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật
thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính
chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng
đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các
sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương
tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại.
Như vậy, ta có thể kết luận rằng: Trong quá trình xây dựng Thành
Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc
trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực
hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt
trong đông
Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các
huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây
nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại
và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một dải Long mạch
đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh
nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp Bạc.. . Một nguyên nhân nữa sau này,
đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối
thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP. HÀ NỘI,
người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng - Nay là các phố
Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ.. . Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của
Tháp Báo Ân ngày xưa.. .
Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí
phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí
đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những
bậc hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc
Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước.
3. Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3: Hậu quả của việc rút bỏ
Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung.
Số phận của Long mạch sẽ như thế nào? Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức
tạp của nó. Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong
và ngoài Diễn đàn góp ý, bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục
được hậu quả của Lịch sử. Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng
ta
.
Trước hết, ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao biền
và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các
vùng phụ cận. Hiện nay, tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện
pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy. Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện
tượng trấn yểm của Mã viện (Trụ đồng Mã viện); Các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;
Các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà, các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn
(Cái ếm ở Bài Bài, thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc, cây ếm ở núi Nước)..
.
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm, ta
cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của
nó. Từ xưa, việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý, không
được tiết lộ ra ngoài, sợ lộ Thiên cơ. Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận
giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí, ma thuật, không có tài liệu
nào được truyền ra. Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một, ta có thể
dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này. Mặt khác, Thuyết Âm Dương, Ngũ
hành với cơ sở là Hà đồ, Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất
cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô, nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước, tìm kiếm.
Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp. Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông
Y về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của Thuyết
Âm Dương, Ngũ hành. Lý thuyết của Đông Y về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc rất phức tạp
và có từ rất lâu đời, cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh, có thời
điểm khoảng 5000 năm. Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho
luận điểm của mình.
HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.
1/HUYỆT: Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ. Là nơi tập
trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ. Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh, Mạch,
Lạc nằm ở những nơi cố định. Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt. Những Huyệt bình
thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ
trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, trong
toàn bộ cơ thể con người. Trong cơ thể có một mạch Nhâm, một mạch Đốc,12 đường Kinh
chính, cộng thành 14 Huyệt Kinh. Có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt. Hệ
thống Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc tiếp nhận Thiên khí,Địa khí, Thời khí, có tính chất
Âm Dương Ngũ hành. Nhờ hệ thống trên, ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc
mà đả thông cho thuận. Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có
thể kích thích khi có bệnh.
2/Kinh: Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia. Các đường
đó đi lắt léo, chồng chất qua rất nhiều chỗ; Liên đới với các đường Kinh khác theo
tính chất Âm Dương, Ngũ hành, liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,
tinh thần con người, vì vậy mà gọi là Kinh.
3/Mạch: Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra. Nó đi khắp nơi,
phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với
chính Gốc.
4/Lạc: Nó là các đường của Kỳ huyệt, nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ
hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt, chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con
người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để
định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An lạc?
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.
* Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh, Mạch chính, quan hệ
với Tạng phủ, chuyển dần sang các chi nhánh, Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương. Nội
Kinh liên quan đến các tương quan, phản xạ, phát sinh Ngoại giao cảm, giữa Linh
hồn, Vía, Phách và thể xác.
* Ngoại Kinh: Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính,
khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp. Ví dụ cụ thể như: Có người đã bị chết lâm sàng,
tiêm, chích thuốc theo Tây Y không được, nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm, day,
châm, cứu
Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được. Có rất nhiều kỳ Huyệt
mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết, trở về nhập vào cơ thể.
Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể. Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén, rất công hiệu,
có thể cứu mệnh con người, trong nhiều trường hợp nguy cấp. Đời thường từ xưa đã
từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này, song họ vẫn cho đó là Thần bí.
Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc; 12 đường Kinh chính,15 đường
Mạch
Lạc, và vô số Huyệt.
Xin nói thêm về Huyệt: Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội,
đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm. Có các loại Huyệt là Du huyệt, Mộ huyệt,
Nguyên huyệt, Lạc huyệt, Khích huyệt..
Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật. Theo
người viết được biết: Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì
bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người. Các Huyệt đó
rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu
tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế, tật
nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết
chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt
với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt, các yếu hại Huyệt chính
là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh, Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh
hồn và cơ thể con người. Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc, gắn kết lục
phủ, ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn, mạnh thì dẫn đến tử vong, nhẹ thì
dẫn đến tàn phế, tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo
kinh có liên hệ đến các Luân xa.
Theo nguyên lý “Con người là tiểu Vũ trụ ”thì Âm Dương, Ngũ hành
được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt. Các đường Kinh thứ nhất: Can -Đởm, Tâm -Tiểu
trường, Tỳ - Vị, Phế -Đại trường, Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.
Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu. Tổng cộng
12 Kinh gọi là đường Kinh chính. Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành
phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.
Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,
còn Kinh
Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm.
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm.
Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn
Hỏa. Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu.
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh: Nhánh trái thuộc Dương
(đối ứng với Bán cầu não Phải), nhánh phải thuộc Âm (đối ứng với Bán cầu não trái).
Từ đó các Huyệt được chia ra: Huyệt phía trái thuộc Dương, Huyệt
phía Phải thuộc Âm.
Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa
-Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long, mạch như sau:
Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm
con người có quan hệ hữu cơ với Trời,Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt
mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này).
1/Về Thiên: Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng)
Trên các đỉnh núi cao. Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người.
Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian, với con người khác nhau.
Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời,được đại diện bởi Cửu tinh
đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ
trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn
đề này). Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái dương,
Vân hớn, Kế đô, Thái âm, Mộc đức và Tam kheo, Ngũ hộ, Thiên tinh, Toán tận, Thiên
la,Địa võng, Diêm vương, Huỳnh tuyền) ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của
con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ
Mặt trời đối với con người. Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương
tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất.
Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.
2/Về Địa: Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long) Chảy theo các
mạch nước, tụ lại, và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng, Dương giáng). Ta thử suy luận
một chút về danh từ THĂNG LONG: Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG. ĐÂY MớI THỰC
LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn
thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG). Ta cũng nói thêm rằng Khí làm
cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm -Địa khí.
3/Về Nhân: Có thể xác định được Âm phần, Dương phần, Họa, Phúc,
Mệnh, Thân của từng con người.
Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ.
Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau: Trước hết là các dãy
núi cao vút của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình, tới dãy Tam đảo, dọc theo sông
Tô lịch ngày xưa,đi tiếp tới Cổ loa, kéo dài đến sông Đuống, sông Thái bình, ra
tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long. Ta nối tất cả các điểm trên thành một
đường. Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ. Theo phân tích
ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương. Đây cũng chính là một Long mạch
có hành Khí Dương. Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.
Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau: Xuất phát cũng
từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình,đi tới dẵy
núi Ba vì, qua cầu Hàm Rồng, theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển. Nối
các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ.
Nhánh Bạch hổ thuộc Âm, do vậy Long mạch này có hành khí Âm. Các Huyệt nằm trên
nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm
Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch
hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này
là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều. Tuy nhiên do sự sai lầm của
Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện. Theo các cổ
thư chữ
Hán, cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây. Đây là độ số
của Lạc thư. Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc, theo đúng độ số của
phương Tây. Tuy nhiên, theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh
nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là
tỉnh Phú thọ -Kinh đô của các Thời đại Hùng vương) Thì độ số của phương Tây không
phải là như vậy. Theo người viết, trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên
trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác. Khi
đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều
thuận kim đồng hồ. Theo chiều từ phương Bắc,Đông Bắc,Đông,Đông nam,.. . Tới Tây,
tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau: 1 3 7 9-6.
Ta vẩn biết rằng: 1 -là hành Dương Thủy. 6 -Là hành Âm Thủy.
8 -Là hành Âm Mộc. 3 -là hành Dương Mộc. 2 -là hành âm Hỏa. 7 -là hành Dương Hỏa.
5 - là hành Dương Thổ. 10 -là hành Âm Thổ. 4 -là hành Âm Kim. 9 -là hành Dương Kim.
Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau
như sau: Thủy (6-1) Sinh Mộc (8-3) Sinh Hỏa (2-7) Sinh Thổ (10-5) Sinh Kim (4-9)
Và lại trở về hành Thủy. Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì
nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay. Điều quan
trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này, thì giờ đây có thể chúng ta chỉ
còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử.
Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch, sau khi Cao biền Trấn, yểm
dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này,
dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy
khê ra tới sông Hồng. Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại. Hiện nay
sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI, theo
thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy) Chẩy
ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng. Như vậy hiện nay, dòng chẩy của
sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long
như ngày xa xưa). Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn, bế phần lớn nên từ
khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo
đường đi của nó. Ngược lại, nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ
trấn yểm nào được thực hiện, ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh
hóa, Nghệ an có một con rồng (Long mạch) Nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.
Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn, nay nhánh Thanh
long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường
nhánh Bạch hổ. Theo nhận xét của người viết, kể từ đó về sau này, Thành Đại la bị
mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được
xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ. Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng
rằng: Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền, các vị Vua,
tướng tài giỏi, các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc
nhánh Bạch hổ mà ra. Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.
Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này, người viết tự nhận
thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân, tiền
bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.
Các câu hỏi
đó là: Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên, Nguyên khí bị thoát ra sẽ
ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung??
? Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không? Khi Long
mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo? Có thể lại xẩy ra hiện
tượng sụt lở đất như ngày xưa không?
Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này. Người viết xin tạm dừng
ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương
xứ sở, thương yêu Đất THĂNG LONG ngàn năm văn vật, là món quà có ý nghĩa mừng Sinh
nhật 1000 năm THĂNG LONG -HÀ NỘI.
Trong bài viết, tôi có sử dụng một số Tài liệu của Gíáo sư NGUYỄN
HOÀNG
PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THÔNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG -Nghệ an, Ẩn sĩ Lý Thiên
Hương
-Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu
của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ -Xin trân trọng cảm ơn
Tôi đã xác minh lại nguồn tin này; Theo Thượng tọa Thích HUỆ
Xướng -Chùa Giác
Lâm _Quận Tân bình -TP. HCM: Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã viên
tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô lịch, nguyên
nhân chết theo Y học là xuất huyết não. Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH là chủ trì chùa
Hương.
Giải thích thêm: Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng
của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm. Khi muốn tác động vào một Huyệt vị nào đó cần
phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng. Khi dùng thủ thuật Trấn
(đè lên) Yểm (Chôn xuống) Cho thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây
dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác. Tiếc rằng kinh nghiệm
này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền lần lần. Mà đó cũng là một điều
may mắn cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi
về đâu? Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều ngưởi có khả năng
đó. Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch
sử -Tất nhiên vì chỉ có những người Trấn yểm mới biết, những sự việc được ghi nhận
là do kể lại nên mất tính chất trung thực. Tuy nhiên, không thiếu dẫn chứng trong
lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó.
Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn
hoặc yểm sau này. Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó. Theo nhận
xét của riêng người viết, khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí
là Dương kim và độ số của nó là 9. Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn
yểm, Cao biền cũng biết rất rõ điều đó, chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây
. Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay, phương Tây thuộc
Kim và có độ số theo Lạc thư là 7. Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất
nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo. Theo người viết được biết, tại một
số vùng của đất Phong châu ngày xưa, các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi
ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái.
Như vậy theo người viết, phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính
xác. Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc
Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà, Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ. Để có thể
trấn được khu vực bị hở của Long mạch, theo thiển ý của người viết, nên dùng hình
thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành. Ta có thể dựng một
cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt, hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè
lên khu vực đã rút đạo Bùa. Theo những tin tức gần đây nhất, sự phát sinh các việc
kỳ lạ như đã nêu ở trên, cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra. Như vây ta thấy
rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa. Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian
bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm), luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi,
cũng không loại trừ đã có sự trấn, yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu
mặt. Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các
nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh. Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng
hợp hay không): Kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở, vùng dọc theo nhánh Thanh long
đã phát triển rất mạnh mẽ. Từ rất lâu đời, các vùng này là khu vực Nông thôn lạc
hậu, nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.
Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch, sau khi Cao biền Trấn, yểm
dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này,
dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy
khê ra tới sông Hồng. Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại. Hiện nay
sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI, theo
thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy) Chẩy
ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng. Như vậy hiện nay, dòng chẩy của
sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long
như ngày xa xưa). Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn, bế phần lớn nên từ
khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo
đường đi của nó. Ngược lại, nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ
trấn yểm nào được thực hiện, ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh
hóa, Nghệ an có một con rồng (Long mạch) Nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.
Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn, nay nhánh Thanh
long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường
nhánh Bạch hổ. Theo nhận xét của người viết, kể từ đó về sau này, Thành Đại la bị
mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được
xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ. Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng
rằng: Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền, các vị Vua,
tướng tài giỏi, các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc
nhánh Bạch hổ mà ra. Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.
Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này, người viết tự nhận
thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân, tiền
bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.
Các câu hỏi
đó là: Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên, Nguyên khí bị thoát ra sẽ
ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung??
? Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không? Khi Long
mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo? Có thể lại xẩy ra hiện
tượng sụt lở đất như ngày xưa không?
Nhận thấy khả năng là do Cao Biền trấn yểm là cao hơn cả. Trong
các tài
liệu cổ lưu lại thì: Cao Biền được vua Đường Trung Tông phong làm An Nam Tiết
Độ Sứ, sang đô hộ nước ta. Cao Biền là một nhân vật rất giỏi về khoa địa lý, nên
trước khi đi sang nước ta nhậm chức, vua Đường Trung Tông đòi vào triều ủy thác
sứ mệnh cho Cao Biền phải tìm các nơi thủy tú sơn kỳ trên đất nước ta, nơi nào có
Long Mạch lớn, có huyệt kết tốt thì phải yểm phá, và lập bản tấu thư về cho vua
Đường Trung Tông biết. Sau khi sang nước ta, Cao Biền vận dụng hết khả năng và thời
gian đi khắp các nơi để Tầm Long Điểm Huyệt. Chính Cao Biền cũng không ngờ trên
một đất nước nhỏ bé như nước ta lại có nhiều Long Mạch lưu tụ và khí thế sông núi
ưu tú đến như vậy. Nên Cao Biền không viết tấu thư mà viết hẳn một cuốn sách tựa
đề là “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự” gởi về tấu trình. Mặt khác Cao Biền lại
tìm cách trấn yểm và phá hủy những Long Mạch lớn, phát vương tướng. Xin trích một
số đoạn trong sách này cho các quý vị tham khảo: “ Giao Châu Đô hộ Sứ, thần
Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch thế hình thế sự, thần hạnh phát dư sinh thao
tỵ hà những, thượng tự thâm sơn, hạ hạ chi đại hải, ngưỡng quan phủ sát, phát tận
chân cơ, ký tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn, thượng tự tự đế vương,
vương công, công hầu, vương phi, thứ thần đồng, tú tài, vị chi thị phủ, phục khất
phủ lãm giảo quan chi khí, kiến văn cụ lục.
HÀ ĐÔNG THANH OAI: _ Đệ nhất: THANH OAI phong Ấp trung Thanh
Uy, hình thế tối kỳ Thủy lưu tứ vượng, án khởi tam qui Mạch tòng hữu kết, khí định
tả y Thần đồng tiền lập, quỷ xứ hậu tỳ
Khôi khoa tảo chiếm, phúc lộc vĩnh tuy Tu phong mạch tận, thừa
tự vô nhi. _ Đệ nhị: CAO XÁ phong
Thanh Oai Cao Xá, chân vi quý long Thủy khuê tùy mạch, bình dương
lai tung Hoa khai hữu hổ, tinh hiện tả long
Sơn thủy trù mật, khí thế sung giong Hà tu hợp hải, ngưu giác
loan cung Chủ khách hoàn mỹ, tả hữu vô tòng Hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng Văn
khôi hoa giáp, võ tổng binh nhung Phú quý thọ khảo, kiêm hữu kỳ công.
.. .. .. .. ” =>
Giao Châu Đô hộ Sứ, thần Cao Biền kính cẩn tâu: Bản châu địa
thế như vầy, thần nguyện đem hết kiếp sống thừa, từ tận núi cao ra đến biển cả khảo
nghiệm để biết các cuộc đất phát lớn từ vương tôn công hầu, đến thần đồng, tú tài,
khoa đệ, giàu sang phú quý mọi thứ.. . Làm bản tấu ca dâng lên tường tận
HÀ ĐÔNG
THANH OAI:
1/. Cuộc đất Thanh Oai:
Trong ấp Thanh Oai, hình thế rất lạ
Thủy vượng bốn phương, án phát tam qui
Mạch kết bên hữu, khí dựng phía tả Thần đồng đứng trước, quý
sứ nối sau Bảng vàng sớm chiếm, phúc lộc dồi dào
Nên phòng mạch tận, không con nối dòng.
2/. Cuộc đất Cao Xá:
Thanh Oai Cao Xá, thật có quý địa Nước khe theo mạch, về nơi
đất bằng
Hoa nở bên Bạch Hổ, sao hiện bên Thanh Long Sơn thủy dồi dào,
khí thế sung mãn
Cần gì hợp biểu, ngưu giác loan cung Chủ khách đều tốt, tả hữu
một lòng Lòng hoa rộng mở, thế phát anh hùng
Văn chiếm đầu bảng, võ chiếm nguyên nhung Sống lâu phú quý, lập
nhiều kỳ công.
.. .. . “
Theo quyển “Tấu thư địa lý kiểu tự” Cao Biền ghi tất cả là 632
huyệt chính, và 1517 huyệt bàng trên khắp các tỉnh như: _ Hà Đông: 81 chính- 246
bàng _ Sơn Tây: 36 chính- 85 bàng _ Vĩnh yên
Phú Yên 65 155 Phú Thọ _ Hải Dương
Hưng Yên 183 483 Kiến An _ Gia Lâm 134 223
Bắc Ninh Đáp Cầu Bắc Giang Lạng Sơn _ Hà Nam
Nam Định 133 325 thái Bình
Ninh Bình
Theo thống kê trên, cũng đủ thấy công phu Tầm Long Điểm Huyệt
và trấn yểm của Cao Biền đến bực nào rồi. Các truyền thuyết về Cao Biền còn lưu
lại rất nhiều trong dân gian Việt Nam ta. Như ở Phú Yên, tương truyền có mả Cao
Biền ở đó, đấy là một độn cát nơi chân núi dưới biển. Độn cát không lớn lắm, nhưng
không bao giờ san bằng được vì bốn mùa gió cát vun lên. Dân trong vùng có câu phong
dao:
Ngó lên hòn núi cả thấy mả Cao Biền
Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai.
Theo truyền thuyết thì từ thuở xa xưa, Cao Biền đã vun biểu tượng
mả để trấn yểm dân Việt Nam. Vì thuật địa lý giỏi nên ông ta đã tìm một nơi bốn
mùa cát vun để ngôi mả đó không bị mất đi.
Trong quyển “Địa
dư bình Định” của ông Bùi Văn Lăng viết
từ năm 1930 cũng có đề cập đến di tích Cao Biền như sau: “Dọc theo đường QL số 1
chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là một cái thẻ thời xưa Cao Biền trấn yểm.
Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ,
nhưng nhổ không lên”. Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gia có một cụm núi nhỏ, cách đó không
xa, lại có một hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi
Cao Biền đã dùng phép trấn yểm thuở xưa. Phải dẫn giải dài dòng như thế là vì đưa
ra một ý hơi khác với tác giả bài viết về vụ sông Tô Lịch. Việc trấn yểm nơi sông
Tô Lịch thì sác xuất là do Cao Biền làm là cao hơn cả (tức là không phải không có
khả năng khác đâu), nhưng chưa hẳn là ông ta tính toán sai lầm. Bởi chúng ta không
phải là người sống thực thời đó, trong tài liệu cổ cũng không lưu lại gì nhiều
về giai đoạn đó của Cao Biền, chỉ là những truyền thuyết trong dân gian. Nhưng tất
cả những truyền thuyết ấy đều nói lên một điều: Bản thân Cao Biền là một nhà địa
lý giỏi, nhưng không thể mang danh Phong Thủy Đại Sư! Vì sao? Vì một người Tầm Long
Điểm Huyệt, cái quý là trân trọng, giữ gìn những kho tàng quý giá mà thiên nhiên
đã tạo ra ấy. Long Mạch chính là cái Tinh Hoa của Đại Địa hun đúc nên, có khi nó
chỉ là ở một dãy núi kết thành, có khi lại xuất phát từ Tổ sơn ở tít xa, khí thế
liên miên bất tận, trùng trùng điệp điệp kéo dài cả mấy chuc, thậm chí vài trăm
cây số mới kết nên một Đại Long Mạch. Một bậc Đại Sư Phong Thuỷ cho dù với lý do
gì thì cũng không nỡ nào phá hũy nó. Chúng ta thôi không bàn đến tư cách đạo đức
của Cao Biền, chỉ nói cái tài, thì ông ta quả thật có tài. Qua bản tấu thư của ông
ta cũng thấy ông ta nghiên cứu rất tường tận về địa hình
địa lý nước ta. Một người đã bỏ công soạn thảo chi ly từng huyệt mạch như ông ta
thì không thể có việc tính toán sai lầm như vậy được.
Việc lý giải các Huyệt, Mạch trong Phong Thuỷ qua hình tượng
đơn giản cho dễ hiểu là kinh mạch trên cơ thể người. Và việc trấn yểm trong Phong
Thuỷ không hẳn là chận, ngăn dòng khí mà có thể sử dụng nó để làm tiết khí Long
Mạch. Khi một Long Mạch bị thoát khí thì kể như đó là vùng đất chết vậy. Muốn hóa
giải, người thầy địa lý phải thật giỏi, nghiên cứu kỹ hình thể địa lý nơi
đó mà cải tạo lại. Bởi Phong Thuỷ không thể thay đổi hình cục của thiên nhiên được
(nếu được thì ngày xưa giờ có lẽ không có chuyện thay triều hoán vị rồi). Người
thầy Phong Thuỷ phải dựa vào bố cục có sẵn của thiên nhiên, cải tạo làm sao cho
không mất đi cái gốc ban đầu, mà chỉ sửa sang nó, bổ sung nó (như làm dòng nước
chảy êm ái hơn mà không phải đào xẻ rộng lòng sông).
Trở lại với vấn đề sông Tô Lịch, có lẽ tác giả bài viết có sự
nhầm lẫn về độ số cung
Đoài chăng? Bởi số 9 Dương Kim như lời tác giả nói thì ôi thôi,
đi lệch với định hướng trong Phong Thuỷ.. . Hơi bị xa rồi. Trong lần tiếp về các
số sinh, số thành, tức là các số 1,2,3,4,5 là số sinh; 6,7,8,9,10 là số thành, cõ
lẽ tác giả dựa theo đặc trưng của Hà Đồ:
Số 1 & số 6 ở phương Bắc hành Thủy Số 2 & 7 Nam Hỏa
Số 3 & 8 Đông Mộc
Số 4 & 9 Tây Kim
Số 5 & 10 ở trung ương thuộc hành Thổ.
Đây là dựa theo các chấm trên lưng con Long Mã trên sông Hoàng
Hà. Các chấm trắng tượng trưng cho số Trời, là số Dương: 1,3,5,7,9. Các chấm đen
tượng trưng cho Đất, là số Âm: 2,4,6,8,10.
Vì vậy Kinh Dịch nói: Thiên 1, Địa 2, Thiên 3, Địa 4.. .. ..
.. Địa 10, Thiên số 5, Địa cũng số 5. Cái mà Hà Đồ phản ánh chẳng qua là kết cấu
không gian của vũ trụ, lấy quả đất làm trung tâm.
Theo Lạc Thư, thì số 1 Thủy ở phương Bắc, số 2 Thổ ở phương Tây
Nam, số 3 Mộc ở phương Đông.. .. Cho đến số 9 Hỏa ở phương Nam. Và các nhà Dịch
học đã vẽ ra ô vuông Lạc Thư. Đem ô vuông Lạc Thư ra đối chiếu, ta thấy nó rất hợp
với phương hướng trên trái đất, như hướng Bắc bên dưới, theo chiều kim đồng hồ chuyển
đi, ta thấy kế đó là hướng Đông Bắc, rồi đến Đông, rồi Đông Nam.. .. Cho giáp vòng
đến Tây Bắc. Đây cũng chính là trùng hợp với Hậu Thiên Bát Quái_ tương truyền của
vua Văn Vương nghĩ ra_ đem hai đồ hình lồng vào nhau, ta có: 1 Khảm, 2 Khôn, 3 Chấn,
4 Tốn, 5 ở trung tâm, 6 Càn, 7 Đoài, 8 Cấn, 9 Ly.
Thực ra theo Hà Đồ, ta có:
Thiên 1 hợp Địa 5 sinh thành 6, nên nói 1 & 6 ở phía Bắc
Thiên 3 hợp Địa 5 sinh thành 8, nên nói 3 & 8 ở phía Đông
Địa 2 hợp Thiên 5 thành 7, nên nói 2 & 7 ở phía Nam
Địa 4 hợp Thiên 5 thành 9, nên nói 4 & 9 ở phía Tây Hai số
Trời là số sinh, nên lấy nó để định hướng. 1 ở chính Bắc thì 9 ở chính Nam, hai
số hợp nhau thành 10.3 ở chính Đông thì 7 ở chính Tây, hai số hơp nhau thành 10.
(Sở dĩ chọn số 5 làm số để cộng vì theo quan niệm xưa, số 5 là con số chủ, tượng
trưng cho vạn vật trong trời đất. Như người thì có Ngũ quan- Ngũ tạng- Ngũ hình
tướng.. ; Vũ trụ thì có 5 loại hình vật chất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.. .. Vv..
.. Nên số 5 thay cho vũ trụ Thiên Địa làm con số cộng thêm vào vậy)
Như đã biết 1,3,7,9 là số Dương, là số Trời. 2,4,6,8 là số Âm,
là số Đất.
Sự vận hành của Thiên Địa theo phương hướng ngược lại với nhau,
Thiên quay sang trái, Địa quay sang phải. Số liên tiếp của Thiên là quay sang trái,
do đó số liên tiếp của Địa phải quay sang phải. Tức là: 6 ở bên phải của chính Bắc,
4 ở bên phải của chính Nam, hai số hợp lại bằng 10 8 ở bên phải của Đông, 2 ở bên
phải của Tây, hai số hợp lại thành 10
Như vậy phương vị của 8 số đã hoàn toàn được xác định, hoàn toàn
ăn khớp với ô vuông Lạc Thư. Tác giả bải viết đó nói Dương Kim là 9, Âm Kim là 4
thực sai lầm lắm vậy! Bởi trong các thư tịch cổ chữ Hán về Phong Thuỷ, cũng chưa
có tài
liệu nào luận phương hướng kiểu lạ lùng như thế. Trong lĩnh vực Ngũ Hành, Âm
dương (mà Phong Thuỷ không thể thoát ra ngoài thuyết này được) Thì:
Càn, Đoài thuộc KIM
Càn, Khảm, Cấn, Chấn là các cung Dương Tốn, Ly, Khôn, Đoài là
các cung Âm.
Do vậy, Càn là Dương Kim, và Đoài là Âm Kim, còn độ số của nó
như đã nói ở trên vậy. Đây là điều đầu tiên mà NCD tôi muốn nói đến về sự sai lầm
trong nhận định độ số của hướng Tây ở bài viết trên. Tây Đoài là Âm Kim, ứng với
thiếu nữ, thuộc số 7.
Luận về hình thế của Phong Thuỷ, Đại Sư Phong Thuỷ đời Tống là
LAI BỐ Y đã viết: Phàm xây dựng thôn trấn, trước hết phải tôn trọng Khí Cục, có
Khí có Cục mới thượng thừa. Có Khí mà không có Cục, hoặc có Cục mà vô Khí thì đều
không phải là đất phúc lộc lâu dài.. .. . Luận về LONG, ông bảo: Khi đã có Chân
Long Huyệt còn phân ra nhiều loại như: Thiên Long, Chi Long, Hư Long, Thực Long,
Phù Long, Khinh Long, Kiên Long, Chiên Long, Địa Long, Thủy Long, Sơn Long, Kim
Long, Mộc Long, Hỏa Long. Có tất cả 14 Đại Long. Phàm tất cả các Long Huyệt như
Hợp Cán Long, Thực Long, Kiên Long, Thiên Long, Địa Long trong Long Huyệt Ngũ Hành
mới đáng gọi là Thực Long. Trăm huyệt không sai một, do kiên cố và đầy đủ Long Khí
nên có thể kéo dài miên trường, ngàn năm không suy vong. Còn những Long Huyệt còn
lại đều là Phù Long, tuy Long Khí thấy rất thịnh nhưng nền tảng không vững chắc,
chẳng qua như hoa đốm trên không chớp chớp rồi tắt ngay, phù nổi mà không có gốc,
rỗng mà không chắc.. .. Long Mạch là Linh Khí của Đại Địa kết tụ, tập trung tinh
hoa của vũ trụ, đó là cái rún ở giửa thắt lưng của Chân Long, lực của nó chí cường..
.. . “
Đấy chưa phải là đủ, chúng ta còn phải xét đến Long Mạch đó là
ở vùng núi non hay ở đồng bằng nữa. Ở vùng sơn cước thì gọi là mạch Âm, vì mạch
luôn chìm xuống (vì thế ta mới gọi là Âm Sơn, đừng lầm tưởng núi cao lên là Dương
rồi cho là Dương Mạch hay Dương Sơn là sai lầm lớn), còn ở dưới đồng bằng thì mạch
nổi lên cao. Long Mạch không chỉ chạy trên đất liền sơn cước hay đồng bằng mà có
thể qua ao, qua hồ, thậm chí qua cả sông, lặn sâu xuống dưới bãi, dưới đầm lầy một
quãng cách thật xa, rồi lại tiếp tục nổi lên đi nữa. Trạng thái này trong Phong
Thuỷ học gọi là trạng thái “Khởi phục” của Long Mạch. Với loại mạch này, các nhà
địa lý thiếu kinh nghiệm thường lầm lẫn, cứ tưởng nơi đó đã đến chỗ Long đình Khí
chỉ, vội tìm Huyệt kết là sai lầm to. Thực ra, một kiểu đất kết phải hội đủ các
điều kiện: _ Tiền án: Là một mô đất cao nổi lên trước mặt Huyệt, như một cái bàn
trước mặt người ngồi vậy. _ Hậu trẫm: Là một mảnh đất đằng sau Huyệt, như một cái
gối để người ta tựa đầu vậy. _ Tả Long: Là thớ đất ở bên trái Huyệt mọc ra ôm chầu
vào Huyệt _ Hữu Hổ: .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. . Phải.. .. .. .. .. .. .. ..
.. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. . _ Minh đường: Là nơi nước tụ trước Huyệt
để nuôi dưỡng khí mạch của Huyệt kết. Nơi bình dương, đồng bằng, xem xét một Huyệt
kết rất khó. Tuy vậy, Mạch ở đồng bằng ôn hòa hơn, phát chậm mà bền lâu, ít bị hung
sát; Còn Mạch ở vùng núi non thì khí thế hùng vỹ bày ra rất dễ trông thấy, vì vậy,
vùng núi non Mạch thường phát tướng võ, ít có phú quý giàu sang (vì hiếm có Minh
Đường Thủy Tụ). Mạch ở vùng núi khí thế càng hùng vỹ thì hung sát càng dữ. Người
nào được mạch ở vùng núi, nếu thành công thì đa sát, nếu thất bại thì gia tộc tử
vong. Muốn không gặp Hung Sát thì đó phải là Chân Long đích thực, lại được một thầy
Phong Thuỷ cực giỏi xác định chính xác Tâm Huyệt mới được. Các nhà địa lý thường
tìm mạch ở vùng núi hơn là mạch ở đồng bằng (Có phải vì nó dễ xác định hơn chăng?!)
Trở lại với vùng đất mà tác giả đề cập, suy đoán, đặt giả thuyết
vài ý sau:
1/. Tác giả lập luận rằng theo truyền thuyết, khi xưa Cao Biền
xây thành Đại La bị sạt lỡ hoài nên trấn yểm. Trong Phong Thuỷ, nếu là Âm phần,
thì xương cốt người mất táng vào đó sẽ hấp thu Linh Khí của Long Mạch, rồi sau đó
phần Linh Khí của vùng đất và của người mất đó hòa vào nhau. Luồng Khí này sẽ theo
không khí mà đi tìm Khí của những người cùng huyết mạch với mình mà hòa quyện vào
đó, sinh ra những con cháu thừa hưởng Long Khí của huyệt mạch đó. Tình trạng này
người xưa gọi là “Đồng
Khí tương cầu”, còn theo Khoa học ngày nay thì như tác giả nói là lực cộng hưởng
không sai.
Với ngôi Dương Cơ, Long Khí tác động trực tiếp lên người sinh
sống ở đó, mà qua sự tiến bộ của Khoa học kỹ thuật ngày nay, người ta chứng minh
đó là do từ trường nơi vùng đất đó tác động đến từ trường của người sống ở đó, nếu
nó thích hợp tần số từ trường người đó thì đem lại kết quả tốt. Chính vì vậy, trong
khoa Phong Thuỷ mới nhận định “nhất
Dương thắng thập Âm”. Một huyệt Dương sẽ phát thật nhanh, nếu hình thể hợp cách
có thể phát vượng cả ngàn năm không suy suyễn, đó thường là cách cục của các Kinh
Thành lớn. Còn Âm phần có tính cách Tiềm Di Mặc Hóa, có khi đến đời con hoặc đời
cháu mới hưng phát. Nhưng nghịch lý thay, trong dân gian lại chú trọng Mạch Âm hơn!
Nếu nói Cao Biền cho trấn yểm nơi đó để xây thành Đại La, và
để phá hoại Long
Mạch thì có hơi khiên cưỡng. Bởi lúc ấy, Đường Trung Tông đã
phong cho Cao Biền làm Đô Hộ Sứ An Nam. Thành Đại La gần như là Kinh Đô thời ấy,
khí vận của nó ảnh hưởng với người cai trị, nếu Cao Biền trấn yểm để xây thành với
mục đích xấu chẳng lẽ ông ta tự đào hố chôn mình sao? Là một bậc thầy tầm cỡ về
Phong Thuỷ, thiết nghĩ Cao Biền không thể làm việc tự di hại cho bản thân đến vậy.
Nếu nói như nhà sử học Dương Trung Quốc nghe có vẻ hợp lý hơn.
Chúng ta chỉ có thể suy đoán mục đích của kẻ trấn yểm qua tình hình, bối cảnh lịch
sử thời ấy, không thế áp đặt cho nó cái tư tưởng suy nghĩ như chúng ta ngày nay.
Vậy thì ở đây có hai giả thuyết: _ một là, Cao Biền trấn yểm là để xây thành được,
và việc xây thành này là để trấn áp Long Mạch đế vương ở An Nam chúng ta_ như nhà
sử học Dương Trung Quốc đưa ra luận cứ trích ở đâu đó _ hai là, việc trấn yểm này
không liên quan gì tới việc xây thành, nó chỉ thuần túy là trấn yểm nhánh Thanh
Long, như tác giả bài viết lập luận.
Theo tác giả bài viết ấy thì Cao Biền đã dùng biện pháp trấn
yểm kia để chận đứng đường đi của Long mạch. Thực tế, trong khoa Phong Thuỷ, chỉ
cần đào xẻ phạm vào Long Mạch là cũng đủ rồi, nếu không muốn cho người khác biết
thì dùng cách trấn yểm ngầm như thế này. Nhưng hoàn toàn không thể vì chận đường
Long Khí mà làm cả nhánh sông khô kiệt được. Xin đừng đem mọi việc gán ghép một
cách thiếu căn cứ, trên lĩnh vực khoa học lẫn trên lĩnh vực Phong Thuỷ
như thế. Khi Long Mạch bị đứt đoạn, thì nguồn Long Khí di chuyển từ Tổ Sơn không
thể đến nơi Kết Huyệt theo đường đó nữa. Cho dù các thầy địa lý có tìm đến nơi kết
huyệt, thiếu mất nhánh Thanh Long thì Huyệt khó kết được. Khi tác giả so sánh các
đường di chuyển của Khí, của Long trong lòng đất với sự dịch chuyển của kinh mạch
trong cơ thể con người, thì đó là sự so sánh tương tự thôi. Khi ta chận một đoạn
trên tay Long hoặc tay Hổ, thì chỉ đoạn sau của nó mất tác dụng, tạo thế mất cân
bằng, khuyết Thanh Long hoặc khuyết Bạch Hổ để vùng đất đó khó Kết Huyệt TRỌN VẸN,
nhưng vùng đất đó vẫn có thể canh tác như ta thấy thực tế ở vùng đó bao lâu nay.
Nhưng nếu là con người, MỘT khi cánh tay bị phế do bị phong bế huyệt, thì nó chỉ
là một phế vật, chỉ chờ bỏ đi thôi, bởi máu huyết không theo đường Kinh lạc nuôi
sống gân cốt nơi đó được nữa. Trở lại với Long Mạch, khi Huyệt khó kết trọn vẹn,
thì nhánh Bạch Hổ khi ấy có chăng nữa, phỏng có ích gì? Việc có một số danh nhân,
võ tướng gì gì, mà tác giả đề cập xuất thân từ nhánh Bạch Hổ, khiến NCD nghĩ đến
hai trường hợp sau: _ Một là, nơi bị trấn yểm không phải là Thanh Long của Huyệt
trường mà chỉ là một Chi Long trên 1 Đại Long. _ Hai là, nơi bị trấn yểm là Huyệt
bàng nằm trên tay Long (tức trên Thanh Long của huyệt). Nếu nơi này nằm trên tay
Long, tức Thanh Long bị vô hiệu hóa, khi ấy Huyệt có kết được cũng là khuyết một
bên. Trong trước tác “Địa
đạo diễn ca” của cụ TẢ AO có nói thế
này:
Long Hổ bằng sự chân tay
Chẳng có tả hữu bằng ngay chẳng lành
.. .. .. Vô Long như người mất chân Vô Hổ như đứa ở trần không
tay.
Như vậy đủ thấy tầm quan trọng của tay Long, tay Hổ trong một
cuộc đất kết Huyệt là thế nào rồi. Thiếu một cái nào cũng lệch lạc, như một kẻ tàn
tật vậy. Nhưng không phải là như vậy rồi không có Huyệt kết, bởi thế ở trên NCD
luôn nói KHÓ kết Huyệt thôi. Trường hợp này có thể là không kết huyệt. Vì sao lại
nói vậy? Muốn hiểu vì sao, ta hãy cùng tìm hiểu xem nếu kết Huyệt thì huyệt đó thế
nào. Trong tự nhiên thiên hình vạn trạng, cũng có khi Huyệt kết mà khuyết một tay
Long, hoặc khuyết một tay Hổ vậy. Khi đó, cuộc đất này có sinh ra người tài nhưng
tàn tật! Vả lại, như cụ TẢ AO có ghi trong Địa đạo diễn ca:
Thanh Long liên châu cao phong
Kim tinh, thổ phụ phát giòng trưởng nam Con gái về bên Hổ sơn
Hổ cao thì phát, sơn bàn cho thông.
Chứng tỏ nhánh Bạch Hổ phát về nữ & các con trai thứ. Trở
lại luận cứ trên, nếu đây là nơi Huyệt bàng trên nhánh Thanh Long, ta trộm nghĩ
xem tại sao trước đây kẻ trấn yểm lại bỏ qua cho Huyệt bàng trên nhánh Bạch Hổ?
(vì theo như tác giả thì trên đất Bạch Hổ vẫn có người tài, vẫn có hưng vượng).
Đặt mình vào thời điểm đó, ta thấy rõ quan niệm xưa trọng nam khinh nữ rất rõ. Mà
theo Phong Thuỷ, “tả
Thanh Long, hữu Bạch Hổ”, “nam
tả, nữ hữu”. Có lẽ vì vậy mà kẻ trấn yểm đó bỏ qua cho Huyệt bàng trên nhánh
Bạch Hổ chăng? Nói thế thật khiên cưỡng, bởi ngoài phát cho nữ, nhánh Bạch Hổ còn
phát cho cả con trai thứ, không thể nào kẻ trấn yểm lại bỏ sót một điều quan trọng
như thế.
Đó không là một Huyệt bàng hay một điểm nằm trên Thanh Long của
Huyệt trường mà chính là 1 CHI LONG thuộc 1 Đại Long vậy. Chính vì thế mà nó không
ảnh hưởng nhiều đến thế cuộc của nước ta trong lịch sử, vẫn cỏn rất nhiều vị vua
ra đời, trong đó không thiếu các bậc Minh Quân. Nếu đây là Long Mạch Đại Địa thì
có lẽ lịch sử nước ta đã đổi khác. Do đó, những ai quan tâm tới Kinh Đô Thăng Long
ngàn năm văn vật của chúng ta xin hãy an tâm. Việc đem các vật cho là trấn yểm Phong
Thuỷ đó lên_ nếu đây đúng là trấn yểm_ là một việc tốt, không hề có nguy hại gì.
Việc xảy ra các hiện tượng lạ vào thời điểm đó, chung với phần lý giải về hai vấn
đề:
1/. Thành Đại La là nơi xây lên để trấn yểm Long Mạch của thành
Thăng Long. 2/. Các hình tượng trấn yểm đó mang ý nghĩa gì?
Trước khi đi vào hai vấn đề hôm trước nêu ra có vài ý kiến về
bài viết đó như sau:
1/. Đánh giá các vấn đề không chỉ đơn thuần trên tính mơ hồ,
nghe nói hay tin hoàn toàn vào một thuyết nào đó. Chúng ta chỉ là những người hậu
học, kế thừa và phát huy những gì ông cha ta đã truyền lại một cách có khoa học, hợp thời, hợp lý. Nghĩa là
trong những thông tin chúng ta tiếp thu được từ
các bậc tiền nhân, cũng phải suy gẫm lại, xem cái nào hợp thời, hợp lý, và xác định
tính chân thật của thông tin dựa trên niên đại, bối cảnh
thời đó. Theo tác giả thì thuật Phong Thuỷ và
Kinh Dịch của chúng ta tiếp thu từ nền văn hóa Vua Hùng, và các
Vua Hùng trước khi mất nước đã cố tình làm sai lệch về các học thuyết Âm Dương Ngũ
Hành. Theo Tam Đoạn Luận của Socrate, thì ngay từ tiền đề tác giả đã sai làm sao
bảo chứng cho những mệnh đề sau là đúng. Cái gì của chúng ta sáng tác ra mà khi
bỏ nước chạy đi, nó vẫn ở trong đầu chúng ta, không thể mất đi. Thế tại sao Kinh
Dịch của chúng ta tại sao cả ngàn năm sau chúng ta vẫn chưa có chữ viết? Điều này
quả thật nghe rất lạ tai, nhưng thôi, cứ tạm tin là vậy. Nhưng nếu tác giả cho rằng
vì các Vua Hùng cố tình làm sai lệch như vậy mà Cao Biền tính toán sai lầm về độ
số thì e rằng có một sự nhầm lẫn to lớn ở đây.
Trong lịch sử nước ta, dựa theo các tư liệu
lịch sử thì từ trước đến nay nước ta chưa có nhân vật kiệt xuất nào về Phong Thuỷ
trước thời đại nhà LÝ cả. Chúng ta cứ tin như lời tác giả rằng quả thật vào đời
các Vua Hùng, khoa Phong Thuỷ đã thịnh ở nước chúng ta đi, thì việc đó cũng chẳng
ăn nhập gì với việc kiến thức Phong Thuỷ của Cao Biền cả. Xin tác giả lưu ý cho
kỹ xem, khi nước ta chưa có bậc Phong Thuỷ nổi danh nào thì ở Trung Quốc thời ấy
có thể kể ra rất nhiều rồi, xin liệt kê ra đây một số những người nổi tiếng đầu
tiên trong giới Phong Thuỷ của Trung Quốc: _ Đời nhà Thương đã có BÀN CANH, người
xem tướng địa cho kinh đô nhà Ân, mở ra một triều đại kéo dài đến mấy trăm năm,
và tạo ra nền văn hóa đồng thau rực rỡ. _ Đời nhà Chu có CÔNG LƯU xem tướng địa
định đô cho nhà Chu đến đất Bân có CỔ CÔNG ĐÀN PHỤ tướng địa đất Kỳ Sơn có CHU CÔNG
tướng địa Kinh Đô Lạc Ấp _ Đời Chiến Quốc có THƯ LÝ TỬ _ Đời Tần có CHU TIÊN ĐÀO,
người soạn bộ sách Sưu Sơn Ký, trước tác gần như đầu tiên về Phong Thuỷ một cách
có qui mô. _ Đời nhà Hán có THANH Ô TỬ soạn Táng Kinh.. .
.. .. .. .
Có rất nhiều, rất nhiều nhà Phong Thuỷ của Trung Quốc xưa đã
nổi danh sớm như thế, chứng tỏ khoa Phong Thuỷ của Trung Quốc có nguồn gốc căn cơ
cội rễ lâu đời, thì tại sao Cao Biền phải dựa vào sách Phong Thuỷ của các Vua Hùng
lưu lại để sai lầm về độ số?? ? Những trước tác về Phong Thuỷ của những nhà Phong
Thuỷ thời đó của Trung Quốc đến nay chỉ còn lại rất ít, nhưng nó được xem như một
kho tàng vô giá cho môn Khoa học huyền bí này. Cả ngàn năm nay người Trung Hoa đã
ứng dụng kiến thức Phong Thuỷ lệch lạc do tổ tiên ta để lại chăng?? ? Hay chỉ mỗi
mình Cao Biền sang An Nam học trộm thuật Phong Thuỷ để rồi làm sai lệch?? ? Quả
thật giả thuyết ấy của tác giả đưa ra khó mà tin được bởi tính logic của sự việc.
Chúng ta là người VIỆT, dòng máu Việt đang chảy trong huyết quản chúng ta, nhưng
không vì thế mà chúng ta chối bỏ sự thật. Sự thật còn hơn vạn lời hùng biện mà!
Nếu tác giả nghĩ rằng mình là người Việt cần có những suy nghĩ tốt cho dân tộc Việt,
vậy thì: Trong lịch sử, nước chúng ta bị người phương Bắc xâm chiếm, cai trị thì
chúng ta cho rằng họ ỷ mạnh hiếp yếu, cá lớn nuốt cá bé. Thế chúng ta xóa số cả
một đất nước Chiêm Thành thì gọi là gì? Chúng ta lấn sang phần đất của Xiêm La thì
gọi là gì? Xin thưa với tác giả bài viết rằng: Đánh giá một vấn đề thuộc phương
diện lịch sử, chúng ta hãy đặt mình vào thời điểm ấy xem quan điểm của thời ấy như
thế nào đã. Ngày trước, vào thời phong kiến là thời tranh giành, mạnh đước yếu thua,
cá lớn nuốt cá bé là xu thế của thời ấy. Hồi đó lám gì có tổ chức Liên Hợp Quốc
như bây giờ để lên tiếng nói công bằng. Trong hoàn cảnh đó, nếu ta không giết đối
thủ thì sẽ bị giết thôi. Do đó việc chúng ta xóa sổ nước Chiêm Thành có thể chấp
nhận được, thì việc bị người phương Bắc đôi khi đánh chiếm là điều tất yếu thôi.
Qua đó chỉ càng chứng tỏ bản chất anh hùng, không chịu khất phục trước cường quyền
của dân tộc ta thôi.
Trở lại vấn đề, tóm lại: Nên chăng trả lại sự công bằng cho xuất
xứ của khoa
Phong Thuỷ?
2/. Vấn đề thứ hai là đặt giả thuyết về danh từ Kinh Đô THĂNG
LONG của chúng ta. Theo tác giả thì cái tên này không phải xuất phát từ ý nghĩa
“con
Rồng bay lên” như trong dân gian truyền
tụng, mà đó là “Khí
Âm thăng lên”. Tác giả còn cho rằng “Khí
làm cho Kinh Đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ như bây giờ là Khí Âm_Địa Khí ”.
Muốn làm rõ hơn ý này, NCD xin nói sơ qua về việc đặt tên trong kiến trúc Phong
Thuỷ & Mạch phát triển Kinh Đô.
Trong Phong Thuỷ, các nhà Phong Thuỷ xưa khi kiến thiết lên một
tòa đình lâu, một hoa viên, một cây cầu, một con đường, một ao thả cá.. . Vv.. .
Nói chung, tất cả kiến trúc mang tính cách tiềm ẩn ý nghĩa Phong Thuỷ, họ luôn đặt
cho kiến trúc ấy một cái tên. Và việc đặt tên ấy cũng có một số qui định bất thành
văn như sau: _ Trước tiên cái tên ấy khi đọc lên phải mang một ý nghĩa tốt lành,
khiến ai nghe cũng thấy thích, thấy hay_ dù có thể họ không hiểu hết ý nghĩa của
cái tên ấy. _ Thứ đến là chiết tự của cái tên ấy ra (đương nhiên theo chữ Hán phồn
thể rồi) Số nét phải hợp với Ngũ Hành của kiến trúc ấy. _ Tiếp nữa là cái tên ấy
tính tổng số nét của nó giải theo Dịch Lý phải có một luận đoán tốt. Cũng trên ý
này mà người xưa dùng để đặt tên cho con cái, mong hậu vận của con cái được tốt
đẹp. _ Cuối cùng là cái tên ấy phải phù hợp với tầng lớp giai cấp
& không phạm húy. Trong Phong Thuỷ, khi đặt tên cho một kiến trúc, các nhà Đại
Sư Phong Thuỷ phải lao tâm khổ tứ rất nhiều để tìm cái tên thích hợp.
Theo truyền thuyết cổ đại, Rồng là một động vật thần kỳ, trưởng
của loài có vảy, giỏi biến hóa, làm mây làm mưa, lợi cho vạn vật. Rồng có thể đi
mây về gió, thoắt ẩn thoắt hiện. Rồng là con vật khổng lồ, nhấp nhô uốn khúc như
dãy núi, người ta bèn ví núi với Rồng. Do đó, trong thuật Phong Thuỷ mượn quan niệm
về Rồng để chỉ ra tính Sinh động, biến hóa và nguồn năng lực mạnh mẽ của các Mạch
Khí trong lòng đất. Long Mạch chính là ám chỉ Huyết Mạch của Rồng, từ này có nguồn
gốc từ đây. Cũng vì những huyền thoại xung quanh con vật thần bí này, người ta tôn
sùng nó (chẳng phải ngay như dân tộc ta cũng tự hào rằng mình là con Rồng cháu Tiên
đó sao?), và nó được các nhà thống trị xem như biểu tượng của sức mạnh, của quyền
uy tối thượng của mình. Vì thế, các vật dụng dùng cho Vua ngày xưa hay thêm vào
chữ Long như: Long xa (xe của Vua đi), Long ỷ (ghế của Vua ngồi), Long sàng (giường
Vua nằm). Vv.. .
Qua những tản mạn quanh chuyện Rồng, ta có thể thấy vì sao có
chữ Long trong tên kinh đô nước ta. Về chử Thăng, trong chữ Hán có đến 5 chữ Thăng,
trong đó có 3 chữ với hàm ý “bay
lên”. Trong ba chữ đó, chữ Thăng 9 nét có bộ THỔ (đất đai), và chữ Thăng có
8 nét có chữ NHẬT trên chữ THĂNG là thích hợp hơn hết. Vì sao? Chữ LONG ở đây là
Rồng là chữ Long có 16 nét. NCD xin trích dẫn ra đây hai bài thơ luận đoán dựa theo
số nét của 2 chữ Thăng Long để các anh chị, các bạn tham khảo xem: _ Nếu chữ Thăng có 8
nét, thì tổng cộng là 24 nét: Cẩm tú tiền trình
Tu kháo tự lực
Đa dụng trí mưu
Năng thành đại khí _ Nếu chữ Thăng có 9 nét thì tổng cộng là
25 nét: Thiên thời địa lợi
Chi khiếm nhân hòa Giảng tín tu mục
Tức khả thành công.
Về số nét thì đã thích hợp rồi, và như vậy thì nó phải đi liền
với hàm ý: “Con
Rồng bay lên”. Như ta đã biết những truyền thuyết về loài Rồng, tính của nó
vốn linh động, chuyên làm mưa làm gió, nên chỉ thích hợp trên cao mặc sức vẫy vùng,
không thích hợp nơi ao tù nước đọng. Rồng một khi thoát lên mây cao sẽ thỏa sức
tung hoành, như vậy mới thể hiện hết Thần uy của nó, cũng như chí Quân Vương “Đại
triển hùng đồ” mở mang bờ cõi. Do đó
cái tên THĂNG LONG như ý nghĩa trước nay ta vẫn hiểu, là xây dựng trên cái lý thể
hiện Quyền uy tối thượng của nhà Vua, thể hiện cái Hùng tâm tráng chí của cả một
dân tộc luôn vươn lên cao tiến triển không ngừng, thể hiện mơ ước một đất nước vươn
lên tự chủ sau thời gian dài bị đô hộ. Câu chuyện mà LÝ THÁI TỔ_ LÝ CÔNG UẨN đưa
ra về giấc mơ chỉ là đánh vào tâm lý người dân sùng bái thần thánh, mê tín dị đoan.
NGÀI ám thị cho người dân biết rằng: Kinh Đô này là Trời ban cho triều đại nhà Lý,
mượn ý Trời để quy kết lòng dân về một mối, một chính sách làm an lòng dân, giúp
người dân có thêm lòng tin để đoàn kết chống giặc mỗi khi có giặc ngoại xâm. Khi
muôn triệu người dân đều tin vào câu chuyện đó, lời từ miệng người
dân phát ra mang theo một từ trường, số đông người tạo thành một năng lực vô hình,
1 sóng từ mang cùng một thông điệp- cùng một tần số chuyển tải vào vũ trụ, và nhân
được sự phản hồi từ vũ trụ. Bằng chứng là sau thời đại các Vua Hùng, các triều đại
đều không truyền đến ba đời, nhưng khi Kinh Đô dời về Thăng Long thì lần đầu tiên
nước ta thái bình thịnh thế suốt mấy trăm năm dài. Cũng trong thời đại này, nước
ta đã mở mang bờ cõi dài xuống phương Nam, chiếm thêm được PHẬT THỆ (nay là địa
bàn Thừa Thiên), rồi tiếp đến là 3 châu Địa lý- Ma Linh- Bố chánh (nay thuộc Quảng
Bình- Quảng Trị). Tuy sau 200 năm, nhà Lý bị mất về tay nhà Trần, nhưng dân tộc
ta vẫn là tự chủ. Đấy không phải là một minh chứng hùng hồn ư?
Cũng trên kế sách an lòng dân này, hơn 400 năm sau Đại Quân Sư
NGUYỄN
TRÃI của chúng ta đã dùng mỡ viết lên lá cây hai câu “LÊ
LỢI vi Quân, NGUYỄN TRÃI vi Thần”, kiến theo ăn mỡ đục khoét lá cây làm cho
lá cây như có sẵn hai câu ấy. Kết quả là lòng dân tin rằng Ý Trời muốn LÊ LỢI làm
Vua, lòng dân theo về, muôn người như một, nhờ vậy mà nước ta lại một lần nữa giành
được độc lập.
Trở lại vấn đề đặt tên Kinh Đô là Thăng Long, chúng ta đã có
thể hiểu rõ về thâm ý dựng nên câu chuyện mang tính thần thoại của
LÝ THÁI TỔ, thì xin đừng vì câu chuyện hư cấu với dụng ý tốt này
mà bỏ đi ý nghĩa tốt đẹp thực sự của Kinh Đô Thăng Long!
Việc tác giả cho rằng Kinh Đô Thăng Long là Mạch Âm có một sự
nhầm lẫn rất lớn trong kiến thức Phong Thuỷ. Trong Phong Thuỷ quả thật có Mạch Dương,
Mạch Âm đấy, nhưng hiểu như tác giả là có một sai biệt rất rõ. Mạch đi trên vùng
núi non là Mạch Âm vì đi chìm xuống sâu, Mạch đi dưới đồng bằng là Mạch Dương vì
nổi lên trên. Đất chôn mồ mã gọi là Mạch Âm phần. Đất xây nhà, lập doanh trại, lập
Đế Đô là đất Dương cơ. Trong Phong Thuỷ có câu “Nhất
Dương thắng thập Âm”. Mạch Dương thường hiện ra với khí thế bao la, có thể xuất
phát từ một Tổ Sơn, nhưng khi đến nơi kết huyệt để lập Đế Đô thì đó phải là vùng
đồng bằng. Khi ấy các mạch núi xa xa, sông ngòi uốn lượn trước mặt tạo nên khung
cảnh hùng vỹ, một khí thế không thể thiếu của các Kinh Đô. Vào thời Vua LÊ- Chúa
TRỊNH, các nhà Phong Thuỷ thời ấy đem “Cao
Biền tấu thư địa lý kiểu tự” ra mà mổ
xẻ, phân tích, đi tìm các Long Mạch mà Cao Biền đã ghi trong đó. Và thời bấy giờ
đã dấy lên một làn sóng tranh cãi về các học thuyết Phong Thuỷ, và cũng sau thời
điểm ấy Cụ TẢ AO được giới Phong Thuỷ nước ta tôn xưng là Ông THÁNH Địa Lý. Chính
Cụ TẢ Ao đã nhận xét rằng cuộc đất THĂNG LONG là cuộc đất lớn phát về Mạch Dương.
Phải nói Kinh Đô THĂNG LONG như mở ra một trang sử mới cho dân
tộc ta sau một thời gian dài bị thống trị, như kiêu hùng hơn, thịnh vượng hơn. Có
lẽ cái tên mang ý nghĩa “Con
Rồng bay lên” như hàng ngàn năm qua dân
ta nghĩ vẫn tốt hơn, mang lại nhiều may mắn hơn cho đất nước ta vậy. Qua những dẫn
chứng trên, ngoài việc chứng minh cái tên Thăng Long mang ý nghĩa ấy. Trước triều
đại nhà LÝ, nước ta chưa có bậc Đại Sư Phong Thuỷ nào tầm cỡ như Quốc Sư VẠN HẠNH_
người đã tìm ra cuộc đất cho Kinh Đô Thăng Long của chúng ta.
Như đã nói ở phần trước, khi bàn về cái tên Kinh Đô Thăng Long,
xét đến khía cạnh tốt đẹp của nước ta từ sau khi dời đô về đây, có lẽ không cần
phải giải thích gì thêm chắc các anh chị, các bạn cũng thấy rõ hoàn toàn không có
sự trấn yểm gì ảnh hưởng tới Kinh Thành Thăng Long cả. Bởi triều đại nhà Lý bắt
đầu từ Lý Thái Tổ, cho đến đời Lý Chiêu Hoàng chuyển sang tay nhà Trần cũng có đến
218 năm. Để các quý vị không phải thắc mắc, cho rằng 218 năm vẫn là ít so với Trung
Hoa, NCD xin dẫn chứng ra đây các triều đại của Trung Quốc từ sau khi Tần Thủy Hoàng
thống nhất Trung Nguyên: _ Đời Tây Hán: Năm 202 trước Công Nguyên, Lưu Bang lập
nên triều đại nhà Hán, đến năm 8 sau Công Nguyên bị Vương Mãng lật đổ, được 210
năm. _ Đời Đông Hán: Năm 25, Lưu Tú giành lại quyền cai trị, đến năm 220 bị Tào
Phi chiếm ngôi nhà Hán, đời này chỉ kéo dài 195 năm nhưng còn tệ hại hơn, nửa đời
sau, hoạn quan chuyên quyền, loạn lạc khắp nơi.
Bỏ qua thời Tam Quốc phân tranh, ta xét đời kế tiếp: _ Đời Tây
Tấn: Tư Mã Viêm lật đổ nhà Ngụy xưng Đế năm 265, nhưng tính thật ra đến năm 280
mới diệt đước Ngô thống nhất đất nước. Từ mốc 280 đến năm 316 bị Hung Nô tiêu diệt,
triều đại Tây Hán chỉ được.. .. 36 năm. _ Đời Đông Tấn: Năm 317 Tư Mã Duệ Kiến lập
lại triều Tấn, gọi là Đông Tấn, đến năm 420 bị Lưu Dực giết, chỉ được 103 năm.
Kế đến là loạn Nam Bắc triều, ta bỏ qua, kế tiếp: _ Đời Tùy:
Năm 581, Dương Kiên lật đổ Bắc Chu xưng Đế, đến năm 618, Tùy Dạng Đế Dương Quảng
bị giết, nhà Tùy chỉ vỏn vẹn.. .. . 37 năm _ Đời Đường: Năm 618, Lý Uyên xưng Đế,
đến năm 907, nhà Đường bị Hậu Lương tiêu diệt, được 289 năm. _ Đời Bắc Tống: Năm
960, Triệu Khuông Dẫn xưng Đế, đến năm 1126 Bắc Tống bị Kim tiêu diệt, được 166
năm. _ Đời Nam Tống: Tống Cao Tông lập ra Nam Tống năm 1127, đến năm 1279 bị nhà
Nguyên tiêu diệt, được 152 năm. _ Đời nhà Nguyên: Năm 1206, Thiết Mộc Chân làm Thành
Cát Tư Hãn, cho đến năm 1368 thì nhà Nguyên bị tiêu diệt, được 162 năm _ Đời nhà
Minh: Chu Nguyên Chương kiến lập triều Minh năm 1368, đến năm 1644 thì bị nhà Thanh
tiêu diệt, được 276 năm _ Đời nhà Thanh: Năm 1636, Hoàng Thái Cực xưng Đế, nhưng
thực tế đến năm 1644 mới chiếm trọn Trung Nguyên. Đến năm 1911, Cách Mạng Tân Hợi
đã chấm dứt triều đại Phong kiến của Trung Quốc, nhà Thanh được 267 năm.
Như vậy, ta thấy rất rõ hiệu quả tốt từ việc dời đô về Kinh Thành
Thăng Long, triều đại nhà Lý tồn tại một thời gian rất dài so với đa số triều đại
của Trung Quốc. Trên thế giới ngày nay, không chỉ riêng Châu Á chúng ta, mà đến
cả các nước Âu, Mỹ cũng đã xác nhận tính khoa học của thuật Phong Thuỷ, và đa
số đều ngầm xem Trung Quốc là cái nôi phát nguồn của thuật Phong Thuỷ. Thế thì ở
một đất nước mà thuật Phong Thuỷ đã đạt đến trình độ tạo được tiếng tăm trên thế
giới, mà các triều đại Vua chúa của họ đa số không kéo dài bằng triều đại nhà Lý
nước ta, vậy thử hỏi Kinh Thành Thăng Long của chúng ta như vậy là Phong Thuỷ tốt
hay xấu đây? Có lẽ câu hỏi này tự trong thâm tâm của tất cả quý vị đã có
câu trả lời
rồi vậy.
Như vậy thông tin việc Cao Biền xây thành Đại
La để trấn yểm Long Mạch vùng Hà
Nội là thế nào? Điều này có hai cách giải thích: _ Một là, việc
Cao Biền xây thành Đại La để trấn yểm Long Mạch ở Hà Nội
chỉ là truyền thuyết. Nhưng giả thuyết này ít có khả năng. Vì sao? Bởi qua hiệu
quả tốt của Kinh Thành như chúng ta đã thấy thì Long Mạch phát Dương vùng Thăng
Long không thể nào Cao Biền bỏ qua. Cho nên, mới dẫn đến ý thứ hai sau đây. _ Hai
là, Cao Biền có trấn yểm thật, nhưng khi xây dựng Kinh Thành Thăng Long, các Đại
Sư Phong Thuỷ nước ta thời ấy_ mà dẫn đầu là Quốc Sư Vạn Hạnh, người có công tìm
ra Long Mạch cho đất Thăng Long_ đã hóa giải đi rồi.
Tóm lại thì việc trấn yểm gì đó hoàn toàn không ảnh hưởng gì
đến Kinh Thành
Thăng Long của chúng ta cả. Xin quý vị nào có lòng yêu mến Kinh
Đô ngàn năm văn hiến hãy an tâm gác chân lên trán mà ăn no ngủ kỹ, à quên, gác tay
lên trán chứ Cheesy
Đến đây sẽ có người hỏi gai gốc “thế thì Phong Thuỷ bảo các đất
Kinh Đô phát dương quang đại cả ngàn năm, sao mới vài trăm năm đã thay triều hoán
vị? Như thế không phải là Phong Thuỷ không đáng tin sao? ”. Có một câu chuyện có thật trên đất nước Việt
Nam mình. Câu chuyện như sau: “Vào đầu thế kỷ 20, có nhà họ LỤC, cất cái quán nhỏ
giửa đèo Cù Mông, ngay trên Quốc lộ số I, chuyên bán nước cho khách bộ hành. Quán
ấy mặt quay về biển Đông, lưng dựa vào vách núi bên kia, phía Bắc là một vực sâu
thăm thẳm.. .. Khách uống nước trả tiền hoặc không cũng được, nhưng trong mỗi bát
nước ông chủ bỏ vào đó năm ba hạt trấu (vỏ lúa). Nhiều người lấy làm lạ hỏi, nhưng
ông chỉ cười và không mấy khi trả lời. Một hôm, có một thầy địa lỳ người Quảng Ngãi
dừng chân uống nước nơi ấy. Qua một lúc quan sát địa thế, thầy địa lý gọi ông chủ
quán họ LỤC nói: _ Đây mới thực là cảnh phát quan, phát phú, ít nhất cũng ba đời.
Mặt trước là đỉnh núi nhỏ che mặt biển, đáng gọi là Tiền Án. Mặt sau hình như Ngọa
Long, Phục Hổ, lại có một ngòi nước nhỏ chảy qua. Chỉ tiếc là bên hông trái quán
này lại bị hố sâu làm cho cuộc đất bị hỏng mất, thật đáng tiếc.. ..
Lão chủ quán chỉ cười mà không nói gì. Thầy địa lý lại hỏi tiếp:
_ Ông chủ quán cứ mỗi bát nước lại bỏ năm ba vỏ trấu làm cho khàch uống nước nhờn
nhợn.. . Tại sao ông phải làm chuyện đó?
Ông chủ quán cười, nói: _ Thường khách qua đường rất khát, gặp
nước thì uống một hơi, tôi sợ họ bị nghẹn nước nên bỏ vào một chút trấu để họ uống
chậm lại thôi. Thầy địa lý gật đầu rồi bỏ đi.
Mười năm sau, thầy địa lý ghé lại quán đó, thấy lão chủ quán
họ LỤc vẫn tiếp tục bán nước, nhưng lạ thay, cái hố sâu kia bấy giờ đã được thiên
nhiên tự vun đất lên cao bằng mặt. Thầy địa lý cầm tay ông chủ quán nói: _ Trong
ba năm nữa ông sẽ hưởng được lợi của cuộc đất phát này.
Đến nay, người cháu nội ông cụ họ LỤC ấy vẫn còn nức tiếng giàu
sang trong vùng đó. “
Cho hay muôn sự ở đời không qua cái ĐỨC, chính cái TÂM của ông
chủ quán
THIỆN lương nên đã khiến xui thiên nhiên đãi ngộ cho ông vậy.
Hành động bỏ vỏ trấu của ông vào bát nước thật đúng với câu nói của ông bà xưa răn
dạy:
Vật vị THIỆN tiểu nhi bất tác Vật vị ÁC tiểu nhi bất hành
Nghĩa là: Chớ thấy việc THIỆN nhỏ mà không làm; Chớ thấy điều
ÁC nhỏ mà làm.
Khi đã xác định việc đó không có ảnh hưởng gì tới Kinh Thành
của chúng ta, thì việc tìm hiểu các vật trấn yểm này chỉ trên tính cách cùng nhau
nghiên cứu thôi. Bởi hai nguyên do:
_ Một là, chưa thấy được hình chụp hiện trạng các vật mà tác giả cho rằng là vật
trấn yểm Phong Thuỷ gì đó, hay ít ra cũng là một sự mô tả chi tiết về cách sắp xếp
của các vật ấy lúc còn nguyên trạng. _ Hai là, Phải biết các Mạch núi ở ngoài ấy
tập trung khu vực nào, hướng chiều nào, phát nguyên của Sơn Long ở đâu? Của Thủy
Long ở đâu? Của Sa Long ở đâu? .. . Còn rất nhiều điều chưa biết, nên rất khó đoán
định được mục tiêu của người trấn yểm kia là nhằm vào việc gì.
Dù không nắm rõ mục tiêu kia, nhưng chắc chắn vẫn không ảnh hưởng
tới Thủ Đô
Hà Nội
của chúng ta rồi. Và cũng có thể do cái tâm của kẻ trấn yểm kia không tốt, muốn
hủy đi Linh Khí của Thiên Địa nên khiến xui chỉ trấn nhằm những Mạch nhỏ thôi cũng
không chừng? Bởi như Cụ TẢ AO đã dạy:
Đức Nhân vốn ở cả mình
Trước là tích Đức sau là Tầm Long.
Hay như sách “Hồng Vũ Cấm Thư” của Dương Quân Tùng đời Đường
cũng viết: “Tiên
tích Đức nhi hậu Tầm Long”.
Học cao, được truyền thụ chân thư chưa đủ, kẻ muốn làm một nhà
Địa lý còn phải có Đức, có Nhân. Vì bước vào con đường Địa lý là bước vào con đường
hành Đạo, phải luyện Nhân Nghĩa trước đã. Khi một kẻ đã có tâm trấn yểm các Long
Mạch tốt, thì bản thân kẻ ấy cũng khó tìm ra các Đại Long Mạch mà trấn yểm, nếu
có chăng thì cũng khiến xui có sự sai lệch nào đó.
Trở lại với vấn đề nơi “bị
trấn yểm” đó, do chưa đủ lượng thông tin cần thiết để đoán định sự
việc, nên nói sơ qua về khoa Chiêm Tinh dựa trên năm tháng ngày giờ.
Như đã nói ở các phần trước, Sơn hà đại địa bao la vạn tượng,
Long Mạch nhiều vô số nhưng đúng thực sự là Chân Long thì rất hiếm, mà cuộc đất
Chân Long Đại Địa càng hiếm hơn. Tìm được Huyệt địa rồi, Phân kim, Lập hướng rồi,
còn một điều tối quan trọng không kém đó là chọn năm tháng ngày giờ thật chính xác
để an táng, hay khởi công động Thổ. Khi chọn ngày giờ sai lệch, không những không
được phước mà còn lập tức chuốc họa vào thân ngay. Trong các sách Phong Thuỷ ngày
nay, gần như ít khi đề cập đến vấn đề này, có lẽ các thầy (xin đừng nói lái lại
nhé!) Giữ lại làm yếu quyết riêng, cũng có thể chính các thầy ấy cũng xem qua loa,
không đánh
giá đúng mức sự nguy hiểm của việc chọn sai ngày giờ. Có một vài cuốn sách theo
trường phái Huyền Không Học, là có nhắc đến việc ảnh hưởng của năm tháng ngày giờ
lên Trạch Mộ, nhưng vẫn chưa nói rõ lắm.
Khoa Chiêm Tinh này có nguồn gốc rất lâu đời, không biết ở các
xứ Âu, Mỹ thế nào, riêng ở Á Đông ta thì nó đã xuất hiện khoảng 4000 năm trước Công
Nguyên. Nhưng lúc ấy, các nhà chiêm tinh xem thiên văn chỉ dừng ở mức áp dụng vào
Nông nghiệp thôi. Các nhà chiêm tinh dựa trên sự vận
chuyển của các vì sao trên Trời mà đoán định mọi việc. Vũ trụ vần xoay, tinh
tú luân chuyển đã tác động đến con người, đến đất đai. Các nhà khoa học ngày nay cũng đã chứng minh
được mỗi một tinh tú trong Thái Dương Hệ đều có sự tác động, ảnh hưởng lên hệ sinh
thái trên Trái Đất chúng ta. Tỷ những ngày trăng tròn thường ảnh hưởng đến hệ thần
kinh con người (nhất là các người mắc bệnh này), hay tác động đến chu kỳ rụng trứng
của phụ nữ, hoặc là tác động đến Thủy triều.. .. Mỗi khi các tinh tú xoay đi nơi
khác thì lực tương tác giửa chúng với nhau, giửa chúng với Trái Đất, giửa chúng
với mọi sinh vật trên Trái Đất cũng khác đi, và chúng theo một qui luật nhất định. Thế mà, các nhà Phong Thuỷ
từ ngàn năm trước đã nhận ra những chu kỳ họa phúc của con người, của các hình thế
đất đai do sự thay đổi của các vì sao ấy. Dựa trên những kinh nghiệm thực tế nhìn
thấy, họ đã đưa ra những luận cứ về chọn năm tháng ngày giờ cho từng công việc,
sao cho thích hợp với Vận khí của từng người, từng hình thể đất đai. Trên đà phát
triển đó, tương truyền vào đời Tấn, Quách Phác đã đưa ra thuyết Cổ Dịch Huyền Không
Học cho môn Địa lý, nhưng chưa thịnh lắm. Rồi đến Dương Quân Tùng đời Đường; Ngô
Cảnh Loan đời Tống (là con trai của Ngô Khắc Thành_ học trò của Trần Đoàn lão tổ);
Tưởng Đại Hồng cuối đời Minh. Nhưng mãi đến cuối đời Thanh mới được Thẩm Trúc Nhưng
tiên sinh phát dương quang đại khoa này, và lan truyền rộng ra công chúng. Phải
nói rộng thêm một tý về trường phái này: Ngoài vấn đề Đức độ, trên lĩnh vực Phong
Thuỷ, chỉ có phái này mới giải thích nổi sự vượng suy, thành bại cũng của một khu
đất, một ngôi nhà, một triều đại.. ..
Theo trường phái Huyền Không Học, tất cả nhà cửa, mộ phần lập
sơn định hướng, cho dù có được Vượng Sơn, Vượng Hướng, hay Thượng Sơn Hạ Thủy..
.. Vv.. . Gì đi nữa thì cũng có giới hạn của nó (các điều cơ bản về phái Huyền Không
Học này. Khi thời hạn đó qua đi, tác dụng đó sẽ hết, dù tốt hay xấu cũng thế. Tồi
đa của 1 cặp Sơn Hướng đối nhau đó là 180 năm.
Thí dụ: Nhâm sơn Bính hướng tối đa vượng được 80 năm, Bính sơn
Nhâm hướng tối đa vượng được 100 năm, cộng lại cho cặp đối nhau này là 180 năm là
thế.
Khoa Huyền Không Học gọi đây là Địa Vận Tam Nguyên nhỏ (mỗi một
Nguyên là
60 năm). Nhưng nếu: Địa mạch kéo dài liên miên bất tận, khí thế
bao la hùng vỹ, trong 8 cung có đủ hai cung Thành Môn hợp cách hai bên tả hữu, lại
là toàn cục hợp Thiên Tâm Thập Đạo, thì Địa Vận của nó có thể kéo dài đến 540 năm
hoặc 1080 năm. Phái Huyền Không Học gọi đây là Địa Vận Tam Nguyên lớn.
Cũng theo gốc Chiêm tinh này, nhiều môn học thuật khác cũng chịu
ảnh hưởng, như: Bốc số, Dịch lý, Y lý, Vu thuật và Kỳ Môn Thuật Số.
Khoa bốc số tức là bói toán, dựa trên năm tháng ngày giờ sinh
của con người mà lập Tử vi; Dựa trên năm tháng ngày giờ sinh mà cân xương tính số.
Khoa Dịch Lý thì dựa trên năm tháng ngày giờ để gieo quẻ, xem
các hào động biến, sinh khắc, xem các lục thân biến đổi, phi phục thần thế nào..
.. Vv.. Nhưng ngày nay, các nhà Dịch học còn tiến một bước dài hơn các tiền nhân,
khi họ đã vận dụng được PHÉP DỊCH. Thuật ngữ này nghe có vẻ lạ tai, nhưng hiểu được
& vận dụng được thì đúng là PHÉP thật đấy! Dụng PHÉP DỊCH, người ta như có quyền
năng siêu nhiên vậy.
Trong y lý, Tây y không biết nghĩ sao, nhưng với Đông y, có một
số huyệt được coi là TỬ HUYỆT nhưng không cố định chỗ mà lại chạy theo giờ, người
ta gọi đấy là Nhâm Thần Thời Huyệt. Và thường thì các huyệt này rất hiếm người tìm
được. Vốn nó bắt nguồn từ việc các võ sư xưa luyện phép Thiết Bố Sam, đao gươm bất
xâm, nhưng luôn tồn tại một Tử Huyệt không thể lấp được. Dần dần, các bậc võ sư
thượng thừa tím cách khắc phục, thân thể gần như Kim Cương bất hoại vậy. Nhưng họ
không biết ngay từ ngàn xưa đã có Bí pháp tìm Tử huyệt theo giờ kia. Do Bí pháp
này rất nguy hiểm, nên nó ít được truyền thụ ra, dần dà đã thất truyền là vì vậy.
Vu thuật là trường phái của những cô cậu đồng cốt, những pháp
sư phù thủy thời xưa. Họ lựa chọn năm tháng ngày giờ tốt để lập đàn làm phép sai
Thần khiến Quỷ. Các loại trấn yểm tà thuật cũng thuộc trường phái này. Một Bí pháp
trong phép tàng hình của Vu thuật ghi lại thế này: Lấy hai mắt của con chó mực phơi
trong bóng mát cho thật khô. Dùng bùa họa trên mắt chó liên tục trong 21 đêm. May
một túi lụa bỏ vào. Muốn vào nhà ai hãy lấy đễ vào tay, hướng về phía cửa nhà người
đó niệm chú, khi đến gần sẽ không ai phát hiện ra (?!).
Bởi nói đến việc trấn yểm không thể không bàn đến một khía cạnh
của khoa Vu
Thuật này, đó là các Bùa Chú. Đấy là các hình vẽ ngoằn ngoèo
mang tính tượng hình (thí dụ như một loại Bùa thanh tâm an thần của ngày xưa bao
gồm 5 vòng xoắn theo chiều kim đồng hồ, rồi 5 vòng theo chiều ngược lại, và kết
thúc bằng một nét ngoéo lại. Chính là lấy hình tượng các vòng Dương, Âm và Thái
Cực vậy). Còn các câu chú chúng ta nghe thấy trúc trắc nhưng đó chỉ là những câu
Kinh nhà Phật thôi, phái này thì lấy theo tiếng Phạn, phái kia thì lấy theo tiếng
Bali, phái nọ thì theo tiếng Hán như chúng ta vẫn đọc kinh.. .. Ngày xưa các thầy
Phong Thuỷ buộc phải biết qua các bùa chú này, bởi trong thuật Phong Thuỷ xưa có
một số Pháp môn thượng thừa_ mà ngày nay chỉ còn truyền miệng kể nhau nghe thôi_
phải dùng đến bùa chú mới được. Các Pháp môn thất truyền này có rất nhiều điều gần
như siêu nhiên vậy, chẳng hạn: _ Dẫn Long nhập thể: Người thầy dùng Bùa chú trục
Long Khí nơi Long Mạch chuyển thẳng vào một mộ huyệt nào đó. _ Di ảnh hóan hình
đại pháp: Dùng trong các trường hợp đối đầu Phong Thuỷ giửa hai thầy địa lý, dùng
để che mắt đối phương cách cục mà mình bố trí vậy. _ Dẫn Long thăng thiên đại pháp:
Đây là một cách rất ác, bởi nó thường làm cho cả một vùng đất trở nên khô cằn vì..
.. Long đã thoát đi! _ Đẩu chuyển tinh di: Dùng trong trường hợp các thầy địa lý
muốn hoán đổi vận mạng cho một người, hay thay triều đổi vận. Cách này thường khó
thành bởi được coi là Nghịch Thiên hành sự (Thuận Thiên giả tồn, Nghịch Thiên giả
vong). Chỉ thành khi sự việc đó là tất yếu phải xảy ra, và người thầy đó chỉ thúc
đẩy nó đi nhanh hơn thôi (nước đang ròng mà bạn muốn lớn có chăng là phép Tiên?!)
.. . Còn rất nhiều Pháp môn nay đã thất truyền, và các phép này
chỉ các bậc Đại Sư
Phong Thuỷ thượng thừa mới làm nổi.
Cuối cùng là Kỳ Môn Độn Giáp. Môn này có lịch sử rất lâu đời,
và Phong Hậu được xem là thủy tổ của môn tượng số Trung Hoa. Ông ta là một vị tướng
tài đã làm ra 12 thiên binh pháp, 12 quyển Cô Hư lập thành Độn Giáp. Đến đời Chu
có Khương Tử Nha_ người giúp nhà Chu dựng nên cơ nghiệp mấy trăm năm. Ông thấu hiểu
binh pháp, uyên thâm về Dịch Lý, làm ra sách về Kỳ Môn. Đến đời nhà Hán có Trương
Lương, được Xích Tòng Tử truyền cho Bộ Thái Ất và binh thư, nhờ vậy mà giúp nhà
Hán gầy dựng cơ nghiệp cũng mấy trăm năm. Đời Tam Quốc phân tranh, có Gia Cát Lượng,
ai đã từng xem qua bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa ắt khó quên vị quân sư tài ba này. Ông
là người ứng dụng thành công nhất Thái Ất & Kỳ Môn Độn Giáp, binh thơ đồ trận
trong thời ấy (sẽ có người thắc mắc ông thấu hiểu môn này vì sao không giúp Lưu
Bị thành công được? Xin thưa trước khi ra khỏi thảo lư thì Khổng Minh đã biết trước
thế cuộc thiên hạ, nhưng vì cảm cái tình của Lưu Bị “tam
cố thảo lư” mà ông ra giúp thôi. Thế
mới biết cái tình của người xưa trong đạo xử thế đáng quý làm sao!). Ở nước ta,
người đầu tiên áp dụng Thái Ất Kỳ Môn thành công và để lại tiếng tăm đến ngày nay
có lẽ không ai qua Cụ Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM. Ông gần như được xem là nhà
bác học đa tài của lịch sử cận đại Việt Nam. Ông nổi tiếng không chỉ vào kiến thức
uyên bác mà còn nhờ vào những bài Sấm Tiên Tri_ mà người đời quen gọi là Sấm Trạng
Trình.
Trong các giai thoại về ông truyền lại rằng: Trịnh Kiểm là con
rễ của Nguyễn Kim, đã soán ngôi ông. Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim, sợ
bị Trịnh kiểm hại mình, nghe tiếng cụ Trạng Trình nên đến xin vấn kế. Nghe trình
bày xong, Cụ không nói một lời, chỉ chấm tay vào chung trà viết lên bàn mấy chữ,
rồi chắp tay sau lưng bỏ vào nhà trong. Tò mò, Nguyễn Hoàng đến xem chỉ thấy câu
“Hoành
Sơn nhất đáy van đại dung thân”. Nguyễn Hoàng về xin Trịnh Kiểm cho mình vào
Nam, nơi dãy Hoành Sơn như Cụ ngầm ám chỉ. Thuở ấy, nơi đó còn rất hoang vu, nên
Trịnh Kiểm đã đồng ý ngay. Và đúng như Cụ đã tiên liệu được, vùng đất ấy sau khi
Nguyễn Hoàng vào khai phá đã trở nên trù phú, dân cư ngày một đông, quả nhiên là
chốn dung thân, kiến cơ lập nghiệp vậy.
Một giai thoại nữa về Cụ: Tương truyền vào năm 1930, khi làng
của Cụ Trạng Trình bị Pháp ném bom (do nghi rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng lập căn
cứ ở đấy), khi làng bị tàn phá thì tự nhiên bật lên tấm bia có bài Sấm ký:
Canh niên tàn phá Tuất Hợi phục sinh. Nhị ngũ dư bình
Dựa theo Kỳ Môn Độn Giáp, Cụ đã tính ra được gần 300 năm sau
làng mình bị tàn phá dữ dội. Vì năm 1930 là năm Canh Ngọ, ứng với câu đầu. Đến năm
Tuất Hợi mới khả dĩ hồi phục, nhưng phải đến 10 năm sau (nhị ngũ) Mới bình thường
lại như xưa.
Thế vì sao gọi là Thái Ất Kỳ Môn Độn Giáp? Trong khoa này có
3 kỳ: Can ẤT làm Nhật kỳ_ Can BÍNH làm Nguyệt kỳ_ Can ĐINH làm Tinh kỳ. Phép Thái
Ất là lấy Can ẤT thay thế Can GIÁP làm đầu cho Thiên Can. GIÁP thường ẩn tránh
(ĐỘN là trốn, là ẩn tránh vậy) ở dưới Lục Nghi, cho nên gọi là Độn Giáp. Vì sao
Giáp phải thường ẩn trốn?
Theo khoa này, Giáp đứng đầu Thiên Can, làm chủ tể. Mà Giáp là
Dương Mộc, nó rất sợ Canh là Dương Kim khắc nó. Ất là Âm Mộc, đứng liền sau Giáp,
tượng như em gái của Giáp vậy. Cho nên Giáp đem em gái gả cho Canh Kim, xem như
để giải oán cừu, và ta cũng thấy Ất và Canh là Thiên Can ngũ hợp đấy. Vì vậy ẤT
thay Giáp làm kỳ thứ I vậy!
Bính thuộc Dương Hỏa, trong Ngũ Hành Hỏa nhờ Mộc sanh nên Bính
tượng như con trai của Giáp vậy. Bính Hỏa khắc được Canh Kim cứu Giáp nên BÍNH làm
kỳ thứ II vậy!
Đinh thuộc Âm Hỏa, cũng nhờ Mộc sanh ra, nên tượng như con gái
của Giáp vậy. Đinh Hỏa cũng khắc Canh Kim, nên ĐINH làm kỳ thứ III vậy!
Vì lẽ ấy Can GIÁP lánh đi trong Lục Nghi để cho Can ẤT thay thế,
như ông Vua giao quyền cho Tể Tướng vậy. Như nước ta, phần đông nhớ đến Đức HƯNG
ĐẠO VƯƠNG mà mấy ai biết ông sống vào thời Vua Trần Nhân Tôn vậy!
Thái Ất Kỳ Môn là dùng năm tháng ngày giờ để lập ra một phương
trình thức. Từ phương trình thức đó mà người ta áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác
nhau: Hành binh, bắt trộm, ngoại giao thương thuyết, địa lý, bói toán, xem thời
tiết, xem mưu sự.. . Vv.. .. Và cao hơn hết chính là hai pháp môn: _ Dùng Kỳ Môn
để sai khiến Lục Đinh, Lục Giáp chư thần _ Dùng Kỳ Môn phổ vào trận thế.
Muốn tìm một công thức của Quẻ Kỳ Môn người ta phải biết được
lúc ấy ở vào Hội nào, Vận nào, Tiết nào; Rồi năm thuộc tuần Giáp gì, năm nào, tháng
nào,.. . Theo khoa này thì Trời mở ra ở Hội Tý, Đất mở ra ở Hội Sửu, Người sinh
ra ở Hội Dần. Mỗi một Hội có 10800 năm, chia làm 30 vận, mỗi vận 360 năm, lại chia
làm 12 thế; Mỗi thế 30 năm.. .. Từ Hội Tý khởi đi, đến nay ta đang ở Hội NGỌ _ Hội
Ngọ được tính từ năm -2196 đến năm + 8604.
Mỗi Hội có 30 vận, tính ra ta đang ở vận thứ 12 vậy.. .. . Cứ
thế, lấy năm tháng ngày giờ trong giai đoạn ấy theo công thức sẵn có gia Trực Phù
(là các sao: Thiên Bồng, Thiên Nhuế, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Cầm, Thiên Tâm,
Thiên Trụ, Thiên Nhậm, Thiên Anh); Gia Trực Sử (là các Cửa Bát Môn: Hưu, Sanh, Thương,
Đỗ, Kiển, Tử, Kinh, Khai); Rồi lại thêm các sao như: Thanh Long, Minh Đường, Thiên
Hình, Chu Tước, Kim Quỹ, Thiên Đức, Bạch Hổ, Ngọc Đường, Thiên Lao, Huyền Vũ, Tư
Mệnh, Câu Trần. Hay Bát Thần: Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu
Tước, Cửu Thiên, Cửu Địa.. .. Nói chung rất nhiều, cực kỳ phức tạp. Lập thành xong
mới luận đoán.
Trong Kỳ Môn, sau khi lập thành, người ta căn cứ vào Trực Phù,
Trực Sử gia vào địa bàn nào, độ số Kỳ Môn bao nhiêu để luận đoán. Do Trực Phù là
các sao, nên nó là cái Linh Khí đang hợp ở lúc đó. Trong môn Độn Giáp, nói về các
sao thuộc về Thiên thể, tức là những quang tuyến vũ trụ ảnh hưởng trong lúc đó cho
muôn sự vật. Nó tương tự như một ý tưởng của nhà kiến trúc vậy, đòi hỏi phải hợp
thời mới được.
Ví dụ như Sao Thiên Xung vượng ở tiết Lập Xuân, được vậy thì
tinh thần sáng rỡ, muôn việc đều thịnh vượng. Nhưng nếu nó lại gia vào cung Thất
Đoài, tức là Thiên Xung/ 7 là phương trình thức, thì Thiên Xung thuộc Mộc bị trên
địa bàn Đoài Kim khắc và xung thì ắt ở nơi không thích hợp, và còn bị nguy hại,
tổn hao nữa vậy.
Còn Trực Sử, nghĩa trực tiếp là thẳng đến sai khiến. Trong môn
Độn Giáp, dùng các cửa Hưu, Sanh, thương.. . Để quyết cái hình trạng thiết thực
trong cõi hữu hình.
Tỷ như nó là người thợ xây, là người thực hiện các ý tưởng của
nhà thiết kế vậy.
Quan hệ qua lại của chúng có thể ví như sau: Trực Phù là một
hạt giống cây đại thụ, nếu cái hạt giống ấy gieo hợp thời vụ, gặp chỗ đất thích
hợp thì cây dần lớn lên, có ngành có ngọn, có hoa có quả. Thân to, hoa thơm, quả
lớn là nhờ ở cái khí hậu nơi cây trồng, nơi đất bồi bổ. Đó chính là ảnh hưởng của
Trực Sử vậy. Nhân tốt thì Quả lành!
Nói đến cái ứng dụng của Kỳ Môn Độn Giáp thì rất nhiều, nếu quý
vị nào có xem qua Tam quốc diễn nghĩa, chắc hẳn còn nhớ trận Lũng Tây, Gia Cát Lượng
đã dụng Kỳ Môn Độn Giáp khiến quân Tư Mã Ý không cách nào đuổi kịp. Về việc này,
trong Kỳ Môn có dạy: Nếu muốn trốn tránh thì lúc còn ở trong nhà, bắt đầu một vòng
theo hướng trên phương vị có sao Thanh Long mà đi, qua sao Minh Đường, rồi ra Thiên
Môn, vào cung Địa Hộ, hướng về Thái Âm, đến Hoa Cái. Nếu xuất hành thì nhanh như
chớp, không ai theo kịp. Nói đến thuật khinh thân này, nếu quý vị nào không tin
có thể tìm xem tác phẩm “Tây
Tạng huyền bí” của dịch giả Nguyên Phong.
Trong cuốn sách ấy kể lại những câu chuyện có thật, của một đoàn Khoa
Học Gia của Hoàng Gia Anh khi họ đến tìm hiểu xứ Tây Tạng. Các nhà ẩn sĩ ấy như
có phép thuật huyền bí vậy. Nói thế chỉ để quý vị thấy rằng các phép khinh công,
phi thân mà trong độn giáp nói là có thực, quan trọng là ta có biết cách ứng dụng
không thôi.
Do đó mà nói, Kỳ Môn Độn Giáp thật sự là thiên biến vạn hóa,
ứng dụng được trong rất nhiều lĩnh vực, nhất là trong các trận đồ ngày xưa_ chi
phái lập trận theo Kỳ Môn này hiện còn tại VN, trong một ngôi chùa ở Thất Sơn Châu
Đốc. Những ai đã từng nghiên cứu qua các loại hình trận
đồ thì ắt biết các trận thế Trường Xà, Tứ Tượng.. .. Nhưng áp dụng Kỳ Môn vào trận
thế thường là những trận Chính phản ngũ hành, Bát Quái.. . Khi áp dụng giờ Kỳ Môn
vào trận thì bên ngoài trận thế vẫn bình thường, nhưng khi vào trong rồi thì cảnh
vật biến đổi, hễ ta tịnh thì cảnh tịnh, hễ ta động thì cảnh động theo. Trong trận
sẽ phát sinh ảo giác khiến những ai bị giam trong đó khó mà thoát ra, nếu không
am hiểu Kỳ Môn. Bởi có tính theo Kỳ Môn mới biết hướng nào cửa Sanh mà ra, tuy nhiên
còn tùy theo giờ nữa. Tỷ như Sanh môn vốn thuộc cung Chấn Mộc, nay gia vào Đoài
tất thất hãm, đã vào hãm địa tất không thể đi vậy, phải chờ đến giờ khác mới xung
phá ra.
Cách nói của một số tiền bối đã từng nhận xét về việc này: Đây
là một trận đồ Bát
Môn có ứng dụng Kỳ Môn Độn Giáp. Về mục đích thật sự của việc
“trấn
yểm” này là gì thì chắc chắn đây là một
trận pháp có uy lực rất lớn. Còn nhốt cái gì thì, có thể là một con Rồng (bởi theo
các nhà Phong Thuỷ xưa thì mỗi một Long Mạch có một con Rồng tồn tại?!), có thể
là những oan hồn gì đó.. .. Vì sao trận pháp này có uy lực rất mạnh? Cũng có lý
do của nó. Một khi lập trận theo Kỳ Môn Độn Giáp thì uy lực của trận đã tăng lên
rất nhiều lần. Nhưng không bằng khi các cửa trận bị khóa hẳn. Chữ “KHÓA” ở đây không
phải là trận không có Sinh Môn, nhưng cả 8 cửa đều được vị Pháp Sư dùng phép, bùa
chú thỉnh người trấn giử hết. Người trấn giữ nếu trong thời gian ngắn có thể thỉnh
thị các Thần Linh, các vị Chiến sĩ Anh Hùng Dân Tộc, các Thiên binh Thiên tướng
gì đó.. . Tùy theo năng lực của vị Pháp sư đó cao hay thấp vậy. Nhưng dễ hơn hết,
và tác dụng dùng dài lâu được chính là cách dùng các oan hồn hay nói như một số
người gọi đó là các Âm Binh. Qua lời mô tả của tác giả bải viết thì rằng: _ Một
là các xác chết kia, trước khi chết đã bị vị Pháp sư bắt uống một loại bùa. _ Hai
là sau khi chết bị vị Pháp sư kia dán bùa lên trán. Nói chung, trong cả hai trường
hợp đều nhằm để bắt linh hồn họ phục tùng, làm nô lệ cho vị Pháp sư sai khiến vậy.
Và dĩ nhiên, trong trường hợp này, vị Pháp sư kia đã sai khiến linh hồn họ trấn
giử 8 cửa trận. Khi có thêm tám cái oan hồn này trấn giữ thì trận càng khó phá giải
thập phần, bởi các oan hồn này khi ấy vừa có thêm đạo bùa của vị Pháp sư vừa được
sự linh diệu của Kỳ Môn trận thế, như tăng thêm sức mạnh gấp trăm lần. Để khuyến
dụ các linh hồn ấy, các vị Pháp sư đã táng thêm các vật dụng, các tiện nghi cho
các oan hồn sử dụng. Vô hình trung, nơi ấy đã trở thành “nhà” của những oan hồn
ấy vậy. Muốn giải điều này, trước tiên phải là một thầy thật giỏi, đủ sức lập đàn
trục những oan hồn nọ đi, nếu bản lĩnh vị thầy không đủ sai khiến các oan hồn thì
chẳng khác nào chọc họ nổi giận thêm thôi. Cũng như nhà quý vị đang ở mà có ai tới
đập phá, quý vị có để yên không.
Không chỉ thế, người lập đàn tràng đó phải là người tinh thông
Kỳ Môn Trận Pháp, biết tính giờ nào thì trận sẽ yếu nhất, có như vậy mới đủ sức
triệt tiêu trận này. Cũng may là lúc trục các cây cột gỗ đó lên nhằm ban ngày, đang
lúc Dương Khí thịnh vượng, nên mới dễ dàng vậy. Khi không còn nơi trú ngụ, đương
nhiên các oan hồn đó trút sự giận dữ lên những ai mà họ cho rằng đã phá nơi cư trú
của họ thôi.
Giả thuyết như đấy là nhánh của của Long Mạch, ảnh hưởng tới
Kinh Thành Thăng
Long, tức là người trấn yểm kia có ý ngăn chận một nhánh Long
Mạch thì cũng có thể. Nhưng nói đấy là Long Mạch ảnh hưởng đến Kinh Thành Thăng
Long thì quả thật không có cơ sở. Trước khi chúng ta gỡ bỏ vật “trấn
yểm” kia thì nước ta vẫn độc lập suốt
hơn 20 năm đấy thôi. Thế Trung Hoa có bị ai trấn yểm mà phải chịu bị Nhật xâm chiếm?
Phải chịu sự áp đặt của liên quân 8 nước? Bị ai trấn yểm mà Vua PHổ Nghi gần như
bị lưu đày xa xứ? Khi xét đến các vấn đề mang tính cách tế nhị này, chúng ta hãy
có cái nhìn khách quan hơn. Nói rằng đất nước ta từ sau khi phá bỏ vật trấn yểm
đó thì tiến triển hẳn, thật rất oan cho sự nổ lực không ngừng của nhân dân cả nước.
Việc thành bại, vượng suy không chỉ căn cứ vào một vấn đề Phong Thuỷ là đủ. Xin
hãy nhớ cho rằng ĐỊA chỉ chiếm 1/3 trong quan hệ Tam tài của vũ trụ. Ngoài Địa lợi
còn Thiên thời, còn Nhân hòa nữa. Việc Kinh Thành vượng suy không chỉ có Long Mạch
là đủ, khoan nói đền Thiên và Nhân, chỉ chữ Địa thôi.
Có người cho rằng do Long Mạch này bị trấn yểm mà các vị lãnh
tụ có chí hướng đều đoản mạng. Cái gì cũng có lý do cả. Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền,
Lý Nam Đế đều ở thời trước khi có Kinh Thành Thăng Long lại ít tư liệu
nào về những người ấy, nên chúng ta tạm gác qua vậy. Nói đến Vua Quang Trung là
phải nói đến thế đất ở Bình Định, mà thời Cao Biền thì làm gì lãnh thổ ta kéo dài
đến đấy?! Vả lại, đất phát Đế Vương Bình Định là đất bạo phát bạo tàn, thế đất như
hình ngàn quân ra trận, hiên ngang hùng vỹ nên mới phát võ tướng. Đất vùng núi non
tuy phát quý nhưng rất dễ phạm Hung Sát, phải chọn mạch thật kỹ mới hóa giải được
sự hung sát của nó. Thêm vào đó, tên Quang Trung khi chiết tự cũng mang ý nghĩ tài
năng quán chúng nhưng yểu chiết. Vào thời Lý, Lý Thường Kiệt từng đánh chiếm cả
hai tỉnh lưỡng Quảng. Đến thời Tây Sơn, Vua Quang Trung lập lại lịch sử một lần
nữa. Đâu phải nước ta chỉ biết thần phục? Chẳng qua chính sách người Việt Nam ta
lấy Đức phục Nhân thôi! Trong các triều đại của Trung Quốc, có triều đại nào mà
yên ổn suốt cả thời gian nắm quyền không? Một nước lớn như Trung Quốc mà còn không
làm nổi thì một quốc gia nhỏ như Việt Nam ta có chút trở ngại thế thì có sá gì?
Tận nhân lực tri thiên mệnh! Khi chúng ta không tận lực thì không phải của trên
trời đổ xuống sẵn đâu, bạn thấy tôi nói đúng không? Khi cho chúng ta một vận hội
tốt thì cũng phải có sự thử thách xứng đáng chứ?
Do đó, thế cuộc đất nước phát triển là điều ta có thể đoán trước
được, trên đà phát triển từ sau khi có chính sách mở cửa, có điều sự việc diễn tiến
nhanh chậm thôi. Nước đang ròng sát thì mười ông thầy giỏi địa lý cũng không thể
làm nước vun lên được nữa là, giỏi lắm thì họ đắp đập ngăn nước, nhưng chỉ đước
một tý thôi. Phong Thuỷ dựa trên cơ sở Dịch Lý, mà Dịch Lý là phải hợp lý, không
thể rập khuôn, không thể cưỡng cầu được. Phong Thuỷ dựa trên Dịch Lý nên cũng không
thoát khỏi cái ý này. Cái gì cũng phải hợp lý trước đã. Nếu không xét cái Lý thì
sao người ta không dùng Phong Thuỷ trấn yễm để bên Trung Đông hết chiến tranh đi?
Như nước Mỹ có ai trấn yểm mà cũng bị sự kiện 9-11? Nước Mỹ bị ai trấn yểm mà hiện
nay đang trên đà đi xuống, hàng năm thâm hụt ngân sách hàng trăm tỷ đô la?
LÝ của Dịch mà, Dương lên tới cực điểm thì xuống Âm, nhưng thực
ra hai sự việc diễn ra cùng lúc đấy. Khi Dương trưởng lên thì trong đó đã có cái
mầm của sự hư hại vậy, chẳng qua chưa tới lúc thôi. Thôi, việc phát triển của Kinh
Thành là cả một đề tài dài, 1-2 lời không thể nói hết,
bởi còn nhiều việc bên trong nữa, chúng ta chỉ dừng ở đây vậy. Bởi khi đưa ra đề tài này chúng ta chỉ dựa trên mục tiêu
là xem có bị ảnh hưởng gì tới kinh Thành không thôi.
Hiện nay, sự việc qua đã lâu, chúng ta cũng thấy rõ không còn
vấn đế gì nữa, có thể xảy ra hai khả năng_ nhưng cả hai đều không nguy hại gì (có
tức giận gì thì cũng một lúc thôi chứ!) _ Một là các linh hồn đó vẫn tiếp tục lưu
ngụ ở đó, cơn giận đã nguôi ngoai mà. _ Hai là các linh hồn đó sau khi bị trục đi
đã tản mác, và trước khi đi đã trả thù vị pháp sư nào đã đuổi họ ra khỏi đó. Lúc
có đàn tràng thì có các vật trấn, có bùa chú sai khiến, các linh hồn ấy không thể
trái ý, nhưng bình thường thì khác à? Trừ phi vị ấy là một người giỏi về phép Lỗ
Ban thì tôi không nói, còn bình thường thì ai cũng như ai thôi.
Còn vấn đề nếu đó là một Long Mạch thì sự giải bỏ cấm chế chỉ
có lợi chứ làm sao có hại được? Có khác chăng đôi chút trong phần lý do ảnh hưởng
thôi. Nếu đó là Long Mạch thì do bị dồn nén lâu ngày, khi tháo ra Khí sẽ tuôn ra
ào ạt. Mà Khí ở đây là gì? Là các tuyến lực ngầm đan xen trong lòng đất, chúng có
từ trường riêng của chúng. Khi các vật trấn yểm kia ở đó lâu như vậy đương nhiên
bị nhiễm sóng từ của nó thôi. Khi phá bỏ cấm chế, Khí ồ ạt tuôn ra, tỏa ra một sóng
từ với cường độ lớn, lẽ đương nhiên những người có liên quan nơi đó sẽ bị ảnh hưởng
rồi. Người nhà họ thì do lực cộng hưởng của tính di truyền mà phải gánh nạn theo
thôi.
Sưu tầm và tổng hợp từ các Báo trong nước
Nhận xét
Đăng nhận xét