MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ NĂM 1930 ĐẾN 1975
Tạ Văn Sang[1]
Lịch sử của dân tộc
Việt Nam là những trang sử vàng trong chiến đấu chống ngoại xâm, giành và giữ
gìn độc lập, tự do cho dân tộc, bởi trong mỗi con người Việt Nam đều đã thấm
đượm các giá trị truyền thống đã được đúc kết từ ngàn đời, trong đó nổi trội
nhất là truyền thống yêu nước rồi trở thành chủ nghĩa yêu nước đó là cội nguồn
sức mạnh, sức sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Trở về với bối cảnh lịch sử Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng về
đường lối cứu nước. Trong giai đoạn này rất nhiều phong trào yêu nước liên tiếp
diễn ra với nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau tuy nhiên các phong trào đều
thất bại và bị dìm trong bể máu với các lý do cơ bản: Không có đường lối chính
trị đúng đắn, hệ tư tưởng của những nhà lãnh đạo lúc đó không còn phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ, thiếu phương pháp cách mạng, hạn
chế trong việc xác định về lực lượng cách mạng… Hồ Chí Minh ra và lớn lên khi
đất nước đang chìm trong đêm trường nô lệ, yêu nước và thương dân, khâm phục ý
chí và tấm lòng cứu nước của các vị tiền bối cách mạng nhưng Người không tán
thành con đường cứu nước của các vị ấy. Vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu
nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có khuynh hướng dân chủ tư sản
đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con
đường cách mạng vô sản Người khẳng định “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”. Đi theo con đường cách mạng vô sản có nghĩa là theo chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin như ánh đuốc trong đêm
đen nó đến với nhân dân Việt Nam như đến với “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”,
nó lôi cuốn những người Việt Nam yêu nước đi theo con đường cách mạng vô sản và
dấy lên một làn sóng cách mạng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ khắp cả nước trong đó
có giai cấp công nhân Việt Nam tạo thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
của một dân tộc đang sục sôi ý chí cách mạng đã dẫn tới việc thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1930.
Từ khi Đảng ra đời
với đường lối cứu nước đúng đắn và phương pháp cách mạng phù hợp cho từng giai đoạn cụ thể và đã đưa dân tộc ta
giành được thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đất nước ta bước vào
kỉ nguyên độc lập tự do và giành thắng lợi trong cuộc Kháng chiến chống Mĩ đưa
nước ta từ một nước thuộc địa trở thành nước độc lập, đưa nhân dân ta từ thân
phận nô lệ trở thành người làm chủ và đưa nước ta vào một kỉ nguyên độc lập,
thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi mới ra đời Đảng ta
đã sớm nhận thức được được tầm quan trọng của phương pháp cách mạng và vận dụng
nó vào thực tiễn tạo nên những chiến công hiển hách đã được lịch sử ghi những
trang sử vàng chói lọi.
Phương pháp cách mạng là phương
thức chuẩn bị, tổ chức lực lượng và tiến hành đấu tranh để thực hiện mục tiêu
cách mạng. Phương pháp cách mạng được
thể hiện cụ thể trong việc chuẩn bị, tổ chức và biện pháp đấu tranh chống lại
các thế lực phản cách mạng trên tất cả các mặt trận chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hoá, xã hội và tư tưởng. Khi cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng
chống lại các thế lực phản cách mạng, diễn ra sâu sắc và đến độ gay gắt nhất,
thì được thể hiện bằng phương thức khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạng.
Phương pháp cách
mạng cốt là nhằm chiến thắng kẻ thù nhưng làm sao để chiến thắng kẻ thù một
cách có lợi nhất, đưa cách mạng tới đích nhanh nhất. Đó không chỉ là lòng dũng
cảm ý chí kiên cường mà cần có sự khôn ngoan, khéo léo, đây không chỉ là một khoa học
mà còn là một nghệ thuật - nghệ thuật cách mạng.
Vậy,
ta thấy rằng phương pháp cách mạng là rất quan trọng đối với thắng lợi của cách
mạng. Phương pháp cách mạng đúng đắn được thể hiện trước hết ở sự kết hợp
hài hoà giữa tính khoa học
và tính nghệ thuật trong việc tổ chức, xây dựng các lực lượng và sử dụng các
hình thức đấu tranh cách mạng. Trong lĩnh vực phương pháp tiến hành cách mạng,
mọi sự chủ quan, tùy tiện, bất chấp quy luật,
cũng như rập khuôn, máy móc, thiếu uyển chuyển, nhanh nhạy trong việc sử dụng
các lực lượng, các hình thức đấu tranh, đều không thể đưa lại thành công.
Về vấn đề phương
pháp cách mạng được Đảng ta nhận thức với các luận điểm cơ bản và sự vận dụng
vào từng giai đoạn nhất định.
Một là, Cách mạng là sáng tạo, không sáng tạo cách mạng không thể
thắng lợi:
Không có một công thức chung duy nhất về cách tiến hành cách mạng
thích hợp với mọi hoàn cảnh, mọi thời gian. Phương pháp có thể thích hợp với
nước này nhưng lại không phù hợp với nước khác. Do vậy, không thể áp dụng những
phương pháp một cách rập khuôn, máy móc mà cần phải vận dụng sáng tạo, phù hợp
với điền kiện cụ thể của từng nước. Phương pháp được coi là đúng nhất tốt nhất
khi nó hội đủ các yếu tố sau: Đáp ứng đủ yêu cầu của tình thế cách mạng cụ thể;
Phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cho phép, huy động đến mức cao nhất các lực lượng
các mạng và tiến bộ lên trận tuyến đấu tranh; Cho phép khai thác triệt để những
chỗ yếu trong hàng ngũ của kẻ địch.
Để cách mạng giành
được thắng lợi chúng ta cần có cách thức tiến hành cách mạng phù hợp đó là:
Phải nắm được đặc điểm tình hình; Nắm được nguyện vọng của đa số nhân dân; Biết
học tập và chọn lọc kinh nghiệm cách mạng trên thế giới.
Quán triệt đầy đủ
những quan điểm lịch sử cụ thể, xuất phát đầy đủ từ đặc điểm của mỗi nước. Sự
hiểu biết về kinh nghiệm của mỗi nước ngày càng phong phú bao nhiêu càng đem
lại khả năng to lớn bấy nhiêu cho sự sáng tạo cách mạng ở nước mình.
Phương pháp cách
mạng của được tiến hành và Đảng ta thể hiện ở các hình thức sau:
Trong giai đoạn 1930
- 1931: Hình thức đấu tranh chủ yếu là bãi công, biểu tình, đấu vũ trang; Giai
đoạn 1936 - 1939: Hình thức đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, bí
mật; Giai đoạn 1939 -1945: Hình thức đấu tranh chủ yếu là khởi nghĩa vũ trang;
Giai đoạn 1954 -1975: Hình thức đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính
trị trong đó đấu tranh vũ trang là chủ yếu để thắng Mỹ - ngụy…
Để có thể tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân
dân xung quanh Đảng cùng chống lại kẻ thù dân tộc Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thành lập các tổ chức, các mặt trận như: Mặt trận Việt Minh, mặt trận Liên
Việt, mặt trận dân tộc thống nhất miền Nam Việt Nam, mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị xã hội khác. Nhờ đó, chúng ta huy động được tối đa
sức mạnh của toàn dân tộc, bên cạnh đó, chúng ta còn nhận được sự ủng hộ, giúp
đỡ của nhân dân tiến bộ trên thế giới tạo nên sức mạnh tổng hợp để tiến công kẻ
thù và giành lại chính quyền và đem lại độc lập, tự do thực sự cho dân tộc Việt
Nam.
Căn cứ vào tình hình
thực tế Đảng ta đưa ra khẩu hiệu phá kho thóc của Nhật giải quyết nạn đói
(1945). Điều đó đã đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng, làm trỗi dậy tinh
thần yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc trong nhân dân, phát động quần chúng
nổi dậy giành chính quyền.
Sau cách mạng Tháng
Tám nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc” với sự sáng tạo của mình Đảng ta đã chèo lái con thuyền cách
mạng Việt Nam vượt qua khó khăn. Vì vậy, Đảng ta chủ trương hòa với Tưởng để
đánh Pháp, hạn chế khả năng phá hoại của Tưởng và sau đó ta lại hòa với Pháp để
đuổi Tưởng. Đây là những giải pháp sáng tạo và khéo léo của Đảng ta để có thể
loại bớt kẻ thù và có thời gian tập hợp và xây dựng lực lượng.
Giai đoạn 1954 -
1975 miền bắc được giải phóng miền nam còn nằm trong vòng kìm kẹp của Mỹ - Ngụy
Đại hội đại biểu toàn quốc lần III Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra 2 chiến lược
cách mạng khác nhau, tiến hành đồng thời ở 2 miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện mục
tiêu chung. Tùy theo từng miền mà có phương pháp cách mạng khác nhau. Đây là
một sáng tạo của Đảng ta chưa từng có trong tiền lệ lịch sử.
Hai là, không được lãng quên mục đích cuối cùng đồng thời phải biết
giành thắng lợi từng bước cho đúng:
Đây là vấn đề mang
tính nguyên tắc, trong chính sách hằng ngày cũng như trong thực tiễn đấu tranh
dù dưới bất cứ hình thức gì và trong bất cứ điều kiện nào người cách mạng cũng
không được lãng quên mục đích cuối cùng. Tuyệt đối không nên vì những mục tiêu
trước mắt mà hi sinh mục đích cuối cùng của cách mạng vì đó là biểu hiện của
chủ nghĩa cơ hội và xét lại. Kết quả là không thể đưa nhân dân thoát khỏi vòng
nô lệ mà còn giam hãm nhân dân vào đau khổ. Song nếu chỉ nắm vững mục đích cuối
cùng thôi thì cũng chưa đủ mà trên cơ sở mục đích cách mạng, nghệ thuật lãnh
đạo cách mạng là ở chổ biết thắng từng bước cho đúng.
Quá chú trọng đến
mục tiêu chiến lược mà quên đi mục tiêu cụ thể thì chúng ta không thể nào xác
định được phương pháp cách mạng đúng đắn và cũng không thể nào tập hợp được lực
lượng cách mạng. Nhưng nếu quá chú trọng đến mục tiêu cụ thể mà quên mục tiêu
chiến lược mà quên đi mục tiêu chiến lược thì sẽ mất phương hướng dẫn
đến cách mạng sẽ thất bại. Do vậy, trong quá trình đấu tranh cách mạng chúng ta
phải xác định đúng đắn mục đích cuối cùng cần đạt. Trên cơ sở mục tiêu chung đó
ta đề ra mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn một cách phù hợp và phải luôn chú ý
mối quan hệ của chúng.
Trong giai đoạn cách
mạng 1936 - 1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phát động
phong trào quần chúng rộng rãi, sôi nổi hình thành mặt trận dân chủ. Kết hợp
nhiều hình thức đấu tranh nhằm giành thắng lợi từng bước, xây dựng lực lượng để
tiến lên giành thắng lợi; Giai đoạn 1939 - 1945 Đảng ta đã xây dựng lực lượng
vũ trang, tiến hành đấu tranh vũ trang, xây dựng căn cứ địa các mạng, giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc.
Giai đoạn 1954 -
1975: Tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng ở 2 miền. Mục tiêu chung của
chiến lược này đều nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, thực hiện thống nhất nước nhà.
Ba là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng:
Quần chúng là người
sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng nòng cốt trong phong trào cách mạng. Do đó,
phải phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực. Trong
quá trình đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
động và tập hợp quần chúng để hình thành và phát triển đội quân chính trị hùng
mạnh. Muốn làm được điều đó cần:
Đảng đưa cán bộ,
đảng viên thâm nhập vào trong quần chúng và cả trong hàng ngũ kẻ địch qua đó
vận động, lôi kéo họ vào tổ chức cách mạng. Đảng phải hiểu rõ tâm trạng và
nguyên vọng của quần chúng để từ đó đưa ra được khẩu hiệu đấu tranh thích hợp
sắc bén kịp thời, có sức động viên quần chúng mạnh mẽ và rộng rãi.
Đưa quần chúng đấu
tranh từ thấp đến cao và không ngừng giác ngộ chính trị cho quần chúng:
Trong cách mạng
Tháng Tám Đảng ta biết tập hợp quần chúng với khẩu hiệu hành động gắn mục tiêu
tức thời và mục tiêu cơ bản như “phá kho
thóc giải quyết nạn đói”. Ngay trong lúc dân ta đang đói khổ thì khẩu hiệu
này đã đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng. Vì thế đã thổi bùng ngọn lửa
căm thù trong nhân dân và phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
Giai đoạn 1954 -
1975: Mỹ - Diệm thực hiện chính sách dụ dỗ, khủng bố, lập ấp chiến lược… lập
khu Dinh Điền, Trù Mật để cách ly dân ta với Đảng. Trước tình hình khó khăn đó
Đảng đưa những đảng viên vào đây để sống cùng nhân dân, vận động nhân dân tiến
hành phá ấp chiến lược. Trong giai đoạn này, ta thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (1955), Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam (1960) Việc thành lập
các mặt trận đã tập hợp được lực lượng quần chúng ngày càng lớn mạnh để giành
được thắng lợi.
Bốn là: Muốn cách mạng nổ ra thắng lợi cần có tình thế cách mạng và
thời cơ cách mạng:
Tình thế cách mạng
là sự kết hợp của yếu tố chủ quan và khách quan nên không được nôn nóng đốt
cháy giai đoạn. Nhưng không có nghĩa là thụ động ngồi chờ mà phải chủ động tạo
ra tình thế cách mạng.
Đoán đúng thời cơ:
Để có thể đoán đúng thời cơ cần nắm được lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về
thời cơ; Bám sát tình hình, nhạy bén và dự kiến chính xác; Phải có quyết tâm.
Theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin: Sự khủng hoảng chính trị phát triển đến tột đỉnh, giai
cấp thống trị không thể thống trị như trước được nữa, giai cấp bị trị không thể
sống cuộc sống dưới ách thống trị cũ và họ quyết tâm lật đổ ách thống trị đó;
Thời cơ cách mạng xuất hiện vào lúc lực lượng trong hàng ngũ kẻ định ngã về
phía cách mạng; Đảng Cộng sản sẵn sàng lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành thắng lợi
đó là lúc thời cơ xuất hiện.
Tiến hành bạo lực
cách mạng quần chúng: Cách mạng là bước phát triển cao nhất của đấu tranh giai
cấp và bao giờ cũng được thực hiện bằng cách mạng bạo lực của các giai cấp bị
trị chống lại giai cấp thống trị nhằm giải quyết vấn đề chính quyền. Xác định
bản chất của chủ nghĩa đế quốc đó là hung hăng, tàn bạo luôn dùng bạo lực do đó
chúng ta phải dùng bạo lực cách mạng để chống trả nhưng Đảng ta luôn tranh thủ
mọi điều kiện để cứu vãn nền hòa bình bởi chiến tranh sẽ dẫn đến đổ máu cho cả
hai bên. Đây cũng là quan điểm mang tính nhân văn cao cả của Bác Hồ và của Đảng
ta, bạo lực cách mạng dựa vào hai lực lượng đó là lực lượng chính trị và lực
lượng quân sựvới hai hình thức đấu tranh chủ yếu: Quân sự, chính trị và sự kết
hợp giữa hai hình thức đó.
Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Đảng ta đã vận dụng chính xác việc nắm bắt thời cơ và tình thế
cách mạng, sử dụng bạo lực các mạng quần chúng để giành thắng lợi. Đảng ta nhận
thức rằng, thời cơ là sự kết hợp hàng loạt nhân tố chủ quan và khách quan nó
không phải tự nhiên đến mà ta cần thúc đẩy nó. Do vậy, chúng ta cần chuẩn bị
chu đáo về mọi mặt để khi thời cơ đến ta có thể nhanh chóng tiến hành cuộc đấu
tranh để giành chính quyền.
Nhìn nhận về cuộc
chiến tranh thế giới thứ II Đảng ta dự đoán Pháp sẽ bại trên chiến trường. ngày
9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, trước tình hình đó Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Lúc này chúng ta tiến hành phá tất cả các nhà ngục khi Nhật - Pháp bắn
nhau để tăng cường cho lực lượng cách mạng. Hầu hết cán bộ, đảng viên đều nhận
định thời cơ cách mạng mạng đã đến cần tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. ngày 12 tháng 8 năm 1945
Ban Thường vụ Trung ương Đảng phân tích tình hình và nhận định thời cơ cách mạng
chưa có vì lực lượng trung gian chưa ngã về phía cách mạng… Khi chiến tranh thế
giới thứ II sắp kết thúc, 14/8 Nhật đầu hàng đồng minh, quân Nhật ở Đông Dương
tê liệt, chính quyền Trần Trọng Kim và bọn tay sai hoang mang, rệu rã, khủng
hoảng chính trị diễn ra trầm trọng, lực lượng trung gian như binh lính, bảo an…
ngã về phía cách mạng, cao trào kháng Nhật cứu nước đã đến tột đỉnh, Đảng ta
sẵn sàng khởi nghĩa, quân đồng minh chưa kịp vào Đông Dương. Thời cơ cách mạng
tốt nhất để ta giành chính quyền. ngày 13 tháng 8 năm 1945 Ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc được thành lập. ngày 13 - 15 tháng 8 năm 1945
Đảng quyết định phát động và lãnh đạo nhân dân ta tiến hành khởi nghĩa trên cả
nước để giành chính quyền từ tay Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
Chiều ngày 16/8 Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào, Đại hội tán thành chủ trương
tổng khởi nghĩa và trong vòng 15 ngày từ ngày 14 - 30 tháng 8 năm 1945 cuộc
tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. ngày 2 tháng 9 năm 1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
Với sự chuẩn bị chu
đáo về mọi mặt cho cách mạng và việc đoán đúng thời cơ, đảng ta phát động tổng
khởi nghĩa giành thắng lợi. Đây là thời cơ ngàn năm có một nếu diễn ra trước
khi có thời cơ đến sẽ tốn rất nhiều xương máu, nếu diễn ra sau khi đó quân đồng
minh vào thì ta không thể giành được thắng lợi. Qua đó, chúng ta có thể thấy
bản lĩnh và tài trí của Đảng ta trong việc dự đoán và nắm bắt thời cơ.
Qua sự phân tích
trên cho ta thấy cách mạng muốn thắng lợi thì ngoài việc có đường lối các mạng
đúng đắn ra cần và nhất định phải có phương pháp cách mạng đúng đắn, trong quá
trình lãnh đạo của mình Đảng Cộng sản Việt Nam đã có được phương pháp đúng đắn
đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn và ngày càng phát triển.
Nhận xét
Đăng nhận xét