Phát triển dịch vụ logistics tại công ty TNHH CJGLS Việt Nam
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vòng 20 năm qua, toàn cầu hoá kinh tế đã làm thay đổi
thế giới trên nhiều phương diện mở mang thêm các lĩnh vực hợp tác quốc tế từ mậu
dịch hàng hoá đến mậu dịch vô hình, tác động mạnh mẽ tới hệ thống “cung – cầu”, làm biến đổi nhanh về số
lượng và chất lượng của nó. Trước đây, vai trò của “cung”
luôn được đặt lên hàng đầu, nhưng ngày nay, tình hình đã thay đổi: trong dây
chuyền phân phối hàng hoá, vai trò quan trọng hàng đầu đã được chuyển từ “cung”
sang “cầu”.
Trong bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào, người sản xuất
luôn phải quan tâm, đặt ra và giải đáp câu hỏi: Khách hàng và người tiêu thụ
sản phẩm của mình là ai? Ai là đối thủ cạnh tranh của mình? Mình cần phải sản
xuất cái gì và tổ chức sản xuất ra sao? Trong lĩnh vực giao thông vận tải, người kinh doanh dịch
vụ vận tải không chỉ đơn thuần là người
vận
chuyển nữa, mà thực tế họ đã tham gia cũng với người sản xuất để đảm nhiệm
thêm các khâu liên quan đến quá trình sản xuất hàng hoá như: gia công, chế biến,
lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, lưu kho và giao nhận.
Hoạt động vận tải thuần
tuý đã dần chuyển sang hoạt động tổ chức toàn bộ dây chuyền phân phối vật chất
và trở thành một bộ phận khăng khít của chuỗi mắt xích “cung – cầu”. Xu hướng đó không những đòi hỏi phải phối hợp liên
hoàn tất cả các phương thức vận tải, mà
còn đòi hỏi phải kiểm soát được các luồng thông tin, luồng hàng hoá và luồng
tài chính. Chỉ khi tối ưu được toàn bộ quá trình này thì mới giải quyết được vấn
đề đặt ra là: vừa làm tăng lợi nhuận cho các DN sản xuất hàng hoá, vừa làm tăng
lợi nhuận cho các hãng vận tải, thương mại,
đảm bảo được lợi ích chung. Từ đó đã hình thành nên vấn đề quản lý logistics nhằm
đạt được mục tiêu trên. Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình để hội
nhập vào nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng khả năng
cạnh tranh, cung cấp cho thị trường các loại hàng hoá phù hợp. Điều này đòi hỏi
người vận
chuyển phải đảm bảo chi phí vận tải hợp
lý, đúng thời điểm, chính xác và an toàn. Muốn như vậy, không có cách nào khác
là các doanh nghiệp giao nhận, vận tải của
ta phải làm quen và áp dụng logistics trong hoạt động của mình nhằm nâng cao chất lượng
dịch
vụ cung cấp, đặc biệt là trong hoạt động vận
tải biển vì khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường biển luôn chiếm tỷ trọng
rất lớn trong toàn bộ khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được chuyên chở.
Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay, tính hiệu quả
chính là yếu tố quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Làm thế nào để đạt
được hiệu quả trong toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp suốt từ khâu đầu tiên của
quá trình sản xuất đến khâu cuối cùng trong quá trình phân phối. Logistics ra đời
đã giúp doanh nghiệp giải quyết vấn đề trên và ngày càng đóng vai trò quyết định
đến sự thành bại của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp ngày càng tin tưởng rằng nâng cao hiệu quả
và để cải thiện năng lực cạnh tranh của họ thì cần phải tập trung tòan bộ năng
lực vào những mảng mà họ làm tốt nhất và chỉ thực hiện những hoạt động giúp họ
gia tăng giá trị cốt lõi của mình. Một số doanh nghiệp đang dần nhận ra rằng hoạt
động logistics không phải là thế mạnh trong kinh doanh của họ và cảm thấy không
hài lòng với hiệu quả hoạt động của chính bộ phận logistics của mình. Họ gia
tăng việc chuyển sang nhà cung cấp dịch
vụ logistics chuyên nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất.
Nhu cầu thuê ngoài dịch
vụ logistics đã theo chân các nhà đầu tư nước ngoài du nhập vào Việt Nam
thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi họ đầu tư vào Việt Nam thì nhu cầu
dịch
vụ logistics gia tăng nhanh chóng phục vụ cho vận
chuyển, lắp đặt cơ sở sản xuất, nhập khẩu trang thiết bị máy móc, xuất khẩu
thành phẩm. Thị trường dịch
vụ logistics ngày càng mở rộng, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của WTO, nhu cầu về dịch
vụ logistics của các công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam ngày càng
gia tăng nhanh chóng. Từ đó đã kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các công ty
Logistics toàn cầu với tiềm lực tài chính mạnh như Maersk, APL, UPS. Hiện nay
hoạt động của các công ty này còn hạn chế do nhà nước còn bảo hộ, các doanh
nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng cạnh tranh và tham gia vào chuỗi cung ứng dịch
vụ logistics của các công ty logistics nước ngòai thông qua hợp đồng đại
lý, liên doanh và những khâu như nước còn bảo hộ.
Tuy nhiên khi gia nhập WTO, Việt Nam buộc phải thực hiện cam
kết mở cửa hoàn toàn dịch
vụ này trong thời hạn 5-7 năm. Sau thời gian này Việt Nam sẽ cho phép các
công ty logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Chính
điều này sẽ tạo thuận lợi cho các công ty logistic nước ngoài vào hoạt động ở
Việt Nam và học viên đã chọn Công ty TNHH CJ GLS Việt nam – nơi mình đã từng
làm việc để nghiên cứu về những khó khăn, thuận
lợi khi tham gia kinh doanh dịch
vụ logistic ở Việt Nam giai đoạn này.
Đối với chuyên ngành kinh tế và kinh doanh quốc tế, thương mại
quốc tế đóng vai trò quan trọng với những hoạt động giao thương, buôn bán.
Chính vì thế logistic có tầm quan trọng đặc biệt để phục vụ hiệu quả cho các hoạt
động kinh doah quốc tế. Với tư cách là một công ty 100% vốn nước ngoài vào Việt
Nam Công ty TNHH CJ GLS có những chiến lược, đường hướng để có thể thích nghi với
môi trường Việt Nam và phát triển thời gian qua đã thôi thúc tác giả đi sâu tìm
hiểu và lựa chọn đề tài này.
- Thực trạng dịch
vụ logistics của công ty như thế nào?
- Cơ hội, thách thức của công ty
khi hoạt động tại Việt Nam là gì?
- Phương hướng phát triển của
công ty trong thời gian tới như thế nào?
2. Tình hình nghiên cứu * Các nghiên cứu trong nước Ở giác độ
tiếp cận trung mô và vĩ mô, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến
logistics hạn chế hơn. Có thể kể đến các tài liệu như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) cấp bộ của Bộ
Thương mại “Logistics
và khả năng áp dụng, phát triển logistics trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ vận tải giao nhận ở ViệtNam” do PGS. TS. Nguyễn Như Tiến (Đại học Ngoại
thương) làm chủ nhiệm (2004) tập trung nghiên cứu khía cạnh dịch
vụ vận tải, giao nhận hàng hoá.
- Đề tài NCKH cấp Bộ “Nghiên
cứu kinh nghiệm quốc tế về dịch vụ hậu cần (logistics) và bài học kinh nghiệm
rút ra cho Việt Nam” do Viện
Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại thực hiện (2006) tập trung phân tích các
kinh nghiệm quốc tế của một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong
việc phát triển dịch
vụ này.
- Đề tài NCKH cấp Bộ “Giải
pháp phát triển dịch vụ logistics của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên
địa bàn thành phố Hà Nội” do GS.
TS. Đặng Đình Đào, Đại học Kinh tế quốc dân chủ biên (2008) chủ yếu tập trung
phân tích các dịch
vụ logistics chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội…
- Công trình NCKH quy mô nhất cho
đến nay liên quan đến logistics ở Việt Nam là Đề tài
NCKH độc lập cấp Nhà nước “Phát
triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế” do GS. TS. Đặng Đình Đào (Viện Nghiên cứu Kinh
tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân) chủ nhiệm, được thực hiện
trong 2 năm (2010,2011) với sự tham gia của nhiều nhà khoa học và tiến hành thu thập số
liệu thông qua điều tra, phỏng vấn ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong
khuôn khổ đề tài này, 2 cuốn sách chuyên khảo
đã được xuất bản. Cuốn “Logistics
– Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, 2011)
tập hợp 26 báo cáo khoa học tại hội thảo của đề tài do đông đảo các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những người hoạt động
logistics thực tiễn ở Việt Nam trình bày. 26 báo cáo này tập trung vào các nội
dung cơ bản: các vấn đề lý luận cơ bản của logistics, cơ hội và thách thức đối
với sự phát triển dịch
vụ logistics ở Việt Nam, các quy định pháp lý liên quan đến phát triển dịch
vụ logistics ở ViệtNam, cơ sở hạ tầng logistics ở Việt Nam, chính sách phát
triển dịch
vụ logistics ở Việt Nam, giải pháp phát triển dịch
vụ logistics ở Việt Nam… Kết quả nghiên cứu của đề tài được giới thiệu một cách đầy đủ
và chi tiết trong cuốn sách chuyên khảo thứ 2: cuốn “Dịch
vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2012), với
các nội dung cụ thể như: khái niệm dịch
vụ logistics, nội dung phát triển dịch
vụ logistics, hệ thống chỉ tiêu đánh giá
sự phát triển các dịch
vụ logistics của quốc gia (giới thiệu chỉ số LPI của Ngân hàng thế giới) và
của doanh nghiệp, các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển các dịch
vụ logistics ở Việt Nam, quá trình phát triển và thực trạng phát triển các dịch
vụ logistics ở Việt Nam, yêu cầu, khả năng, quan điểm và giải pháp phát triển
các dịch
vụ logistics ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Đề tài tiếp cận nghiên cứu logistics dưới giác độ
ngành (ngành dịch
vụ logistics).
- Bên cạnh đó, trên các báo, tạp
chí và các diễn đàn internet, xuất hiện một số bài viết, tham luận.. . đề cập đến
một số khía cạnh liên quan đến thực tiễn phát triển của logistics ở Việt Nam,
nhưng nhìn chung mới dừng lại ở những nhận xét mang tính chất khái quát, định
tính, trong khuôn khổ thời gian và dung lượng hạn hẹp, chưa phải là nghiên cứu mang tính chất chuyên
sâu. Tiêu biểu có thể kể đến tác giả Đỗ Xuân Quang, Phó Tổng giám đốc của
VINAFREIGHT, đã có một số bài viết phân tích về thực trạng, cơ hội và thách thức
đối với ngành logistics ở Việt Nam, thực trạng và định hướng phát triển nguồn
nhân lực cho ngành dịch
vụ logistics ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp từ quan điểm của Hiệp hội
Giao nhận Kho vận Việt Nam (VIFFAS); hay tác giả Đỗ Huy Bình, chủ nhân của blog
về chuỗi cung ứng và logistics nổi tiếng nhất Việt Nam hiện nay (Vietnam’s
supply chain and logistics blog) cũng đưa ra nhiều nhận định liên quan đến thực
trạng phát triển của lĩnh vực này của Việt Nam, chủ yếu là liên quan đến trình
độ cung ứng dịch
vụ của các doanh nghiệp logistics nội địa. * Các nghiên cứu ngoài nước
- Các nghiên cứu chung
Các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến
logistics tập trung nghiên cứu logistics ở 3 giác độ
chủ yếu: (i) giác độ vi mô (mirco logistics- logistics tại các cơ sở kinh
doanh), (ii) giác độ trung mô (meso logistics - logistics của ngành/vùng) và
(iii) giác độ vĩ mô (macro logistics - logistics trong nền kinh tế của một quốc
gia và trong nền kinh tế toàn cầu – logistics quốc gia).
a. Tiếp cận logistics
dưới giác độ vĩ mô Ở giác độ vĩ mô, nghiên cứu được thừa nhận rộng
rãi nhất là của Ngân hàng Thế giới (WB). Trong các báo cáo “Connecting
to Compete: Trade Logistics in global economy” được công bố vào các năm 2007,2010 và 2012, WB
đã xây dựng và công bố Chỉ số năng lực logistics của một quốc gia (LPI), được đánh giá
thông qua 6 nhóm yếu tố: Năng lực thông quan; Kết cấu hạ tầng cho hoạt động
logistics, bao gồm cả kết cấu hạ tầng cố định (cảng biển, đường sá, kho bãi…)
và kết cấu hạ tầng dịch
vụ thông tin liên lạc; Vận tải biển quốc tế; Năng lực và chất lượng
dịch
vụ logistics; Khả năng truy xuất (khả năng theo dõi tình trạng hàng
hóa sau khi gửi) và Mức độ đúng hạn về thời gian thông quan và dịch
vụ. Chỉ số LPI của WB được xây dựng thông qua việc tiến hành điều tra các
nhà hoạt động logistics ở 155 quốc gia trên thế giới và được sử dụng rộng rãi để
đánh giá
trình độ phát triển logistics của một quốc gia, một khu vực, một nhóm quốc gia…
cũng như so sánh trình độ phát triển logistics giữa các quốc gia, các khu vực,
các nhóm nước trên toàn thế giới. Các báo cáo về LPI của WB cung cấp một bức
tranh tổng thể về hiện trạng logistics toàn cầu cũng như của các quốc gia, các
khu vực trên thế giới. Ngân hàng phát triển châu Á (Asian Development Bank –
ADB), trong một nghiên cứu quy mô lớn về phát triển
hành lang kinh tế Bắc – Nam công bố năm 2007 ( “Development
Study on the North – South
Economic
Corridor” ) đã đưa ra
quan niệm về hệ thống logistics quốc gia như sau: Một hệ thống logistics bao gồm:
(1) Những người sử dụng dịch
vụ bao gồm những nhà xuất khẩu, nhập khẩu, thương mại, người gửi hàng, nhận
hàng; (2) Các nhà cung ứng dịch
vụ logistics công cộng và tư nhân; (3) Các thể chế, chính sách, quy định
của quốc gia và địa phương; (4) Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc. ADB cũng cho rằng
kết quả hoạt động của hệ thống logistics được đo lường bởi 4 tiêu chí cơ bản: sự
hiệu quả về chi phí, mức độ thuận tiện, mức độ tin cậy và mức độ an toàn. Những
tiêu chí này được xem xét để đánh giá mức độ hội nhập của một hệ thống
logistics, đồng thời đánh giá năng lực cung ứng dịch
vụ logistics trong khuôn khổ hệ thống. Tác giả
Ruth Banomyong của Trung tâm Nghiên cứu Logistics, Đại học Thammasat,
Thái Lan, một trong những thành viên của nghiên cứu kể trên của ADB, trong
rất nhiều nghiên cứu của mình (công bố các
năm 2007,2008,2010) đều sử dụng quan điểm này. Đây cũng là quan điểm được nhiều
nhà nghiên cứu Việt Nam sử dụng khi
tiếp cận hệ thống logistics quốc gia, tiêu biểu là Đề tài NCKH cấp Nhà nước do
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân tiến
hành (đã đề cập ở trên).
Trong tác phẩm “National Logistics System”, Pavel
Dimitrov (2002) chỉ ra rằng tiếp cận logistics ở cấp độ vĩ mô liên quan đến việc
nghiên cứu và ứng dụng các yếu tố
cơ bản như: Cấu trúc vĩ mô của hệ thống logistics của quốc gia/nền kinh tế thế
giới; Thực trạng logistics của quốc gia/nền kinh tế thế giới và Chiến lược phát
triển logistics của quốc gia/toàn cầu. “National
Logistics
System”
tập hợp các nghiên cứu liên quan đến thực trạng
chính sách phát triển của hệ thống logistics của các quốc gia châu Âu.
b. Tiếp cận logistics dưới giác độ trung mô
Trong kinh tế và kinh doanh, thuật ngữ “trung mô’ (meso) thường được sử dụng liên quan đến khái niệm cụm/ngành
công nghiệp (industrial cluster), tức là chỉ một sự tập trung về mặt địa lý của
nhiều công ty và tổ chức có liên quan đến nhau trong cùng một lĩnh vực, bao gồm
các nhà cung ứng đầu vào, các nhà sản xuất, các nhà cung cấp dịch
vụ, các kênh phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Do đó, tiếp cận
logistics dưới giác độ trung mô thường được các tác giả đề cập đến mối liên hệ
vi mô – vĩ mô giữa hệ thống logistics vi mô của một doanh nghiệp với hệ thống
logistics vĩ mô của cả nền kinh tế. Một hệ thống logistics trung mô thể hiện sự
hợp tác và liên kết với nhau giữa các chủ thể khác nhau trong lĩnh vực vận tải và logistics như các nhà cung cấp dịch
vụ logistics và các cơ quan hoạch định chính sách trong phạm vi một vùng địa
lý nhất định.
Cách tiếp cận
logistics dưới giác độ trung mô thường được nghiên cứu và giải quyết ở các
khía cạnh:
- Các nghiên cứu về trung tâm
logistics. Trung tâm logistics là một khu vực bao gồm mọi hoạt động liên quan đến
vận tải, logistics và phân phối hàng
hóa nội địa cũng như quốc tế, thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ
thể này có thể là người chủ sở hữu hoặc người thuê sử dụng các cơ sở vật chất
và trang thiết bị của trung tâm logistics như kho bãi, văn phòng, khu vực xếp/dỡ
hàng…. Trung tâm logistics cần phải có và được trang bị các trang thiết bị phục
vụ cho các hoạt động và dịch
vụ của trung tâm, cần được kết nối với các phương thức vận tải khác nhau như đường ôtô, đường sắt,
đường biển, đường sông, đường hàng không… Trung tâm logistics thường được đặt ở
gần các đầu mối giao thông vận tải lớn, kết
nối nhiều dạng hình phương thức vận tải
hàng hoá khác nhau cũng như gần các trung tâm kinh tế - thương mại lớn.
- Các nghiên cứu về logistics đô thị
hay logistics thành phố (city logistics). Các đô thị là những địa điểm quan trọng
đối với các hoạt động kinh tế của một quốc gia với tư cách là các trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời cũng là nơi tập trung về mặt địa
lý của nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề khác
nhau. Chính vì vậy, các đô thị đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế vĩ mô của một quốc gia, một ngành kinh tế cũng như của các doanh nghiệp.
Nhiều đô thị đã và đang phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến
giao thông, môi trường… gây ảnh hưởng đến các hoạt động của đô thị đó, trong đó
có các hoạt động kinh tế và kinh doanh. Logistics đô thị là một khái niệm mới
được phát triển trong thời gian gần đây đề cập đến việc tích hợp những nguồn lực
hữu hạn hiện tại để giải quyết những khó khăn gây ra do việc gia tăng dân số và
phương tiện đi lại ở các đô thị, dẫn đến ách tắc giao thông, hiệu quả vận tải thấp, môi trường bị xâm hại… và do đó
khiến năng lực cạnh tranh trong kinh doanh giảm. Logistics đô thị có thể được định
nghĩa là quá trình tối ưu hóa các hoạt động logistics và vận tải được thực hiện bởi các công ty tư
nhân vớisự hỗ trợ của hệ thống thông tin tiên tiến ở những khu vực
đô thị nhằm cải thiện môi trường, giảm ách tắc giao thông, tăng cường an toàn
giao thông và tiết kiệm năng lượng trong khung khổ nền kinh tế thị trường. Một
hệ thống logistics đô thị được cấu thành bởi 4 nhóm lợi ích: (1) các doanh nghiệp/chủ
hàng, (2) các nhà vận tải, (3) dân cư và
(4) chính quyền địa phương.
Cũng giống như các hệ
thống logistics khác, trục cơ bản của hệ thống logistics đô thị là các luồng hàng
hóa và thông tin từ các doanh nghiệp/chủ
hàng đến người tiêu dùng (dân cư). Các doanh nghiệp vận tải tham gia vào quá trình chuyển đưa hàng
hóa và thông tin này, trong khi đó chính
quyền địa phương sẽ điều tiết hoạt động của họ thông qua các công cụ quản lý.
c. Tiếp cận logistics dưới giác độ vi mô – logistics trong hoạt động của
doanh nghiệp - logistics kinh doanh Ở giác độ vi mô, các tài liệu
về logistics rất phong phú, tiêu biểu là các tác giả và tác phẩm: “Fundamentals
of Logistics Management” của Lampert và các tác giả (1998), “Logistics
and Supply Chain Management” của
Christopher (1998) hay “Business
Logistics/Supply Chain Management” của
Ballou (2004).
Hầu hết các tác giả đều coi logistics là dòng vận động của
nguyên vật liệu/hàng
hóa, thông tin và tài nguyên giữa các
phần tử trong cùng một chuỗi cung ứng thống nhất liên quan đến hoạt động của một
doanh nghiệp. Một chuỗi cung ứng là một nhóm gồm các tổ chức kết nối trực tiếp
bằng một hay nhiều dòng chảy xuôi hoặc ngược của sản phẩm, dịch
vụ, tài chính và thông tin từ một nhà cung ứng đến
khách hàng. Cũng có thể coi chuỗi cung ứng là tập hợp các quy trình, các chức
năng và các hoạt động có mối quan hệ tương hỗ, liên quan mật thiết đến nhau,
bao gồm việc mua hàng và giải phóng hàng, vận
tải xuất nhập, nhận hàng, xử lý nguyên liệu, lưu kho và phân phối, kiểm
soát và quản lý tồn kho, lên kế hoạch cung cầu, xử lý đơn hàng, lên kế hoạch sản
xuất, vận tải đường biển, gia công hàng và
dịch
vụ khách hàng… Như vậy, từ cách tiếp cận trong mối tương quan với chuỗi
cung ứng, định nghĩa của CSCMP được sử dụng rất rộng rãi: Logistics có thể được
hiểu là một phần của toàn bộ quá trình quản trị chuỗi cung ứng liên quan đến việc
lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả dòng chu chuyển và
lưu kho hàng hoá, dịch
vụ và các thông tin liên quan một cách hiệu
quả từ điểm xuất phát đến nơi tiêu dùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Với khái niệm trên, logistics trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hay logistics kinh doanh bao gồm nhiều hoạt động khác nhau.
Ballou (2004) phân chia những bộ phận cấu thành của một hệ thống logistics điển
hình trong doanh nghiệp ra thành 2 nhóm hoạt động cơ bản: nhóm các hoạt động
chính và nhóm các hoạt động hỗ trợ.
- Nhóm các hoạt động chính là các
hoạt động được tiến hành ở tất cả các kênh logistics của mọi doanh nghiệp, có
vai trò quan trọng ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động logistics, chiếm một tỷ
trọng lớn trong toàn bộ chi phí logistics của doanh nghiệp. Các hoạt động này
bao gồm: dịch
vụ khách hàng, vận
chuyển hàng
hóa, quản trị dự trữ, xử lý đơn hàng và các dòng thông tin đến và đi.
- Nhóm các hoạt động hỗ trợ bao gồm:
kho bãi và bảo quản, mua hàng, bao gói, phối hợp với bộ phận sản xuất để xác định
khối lượng sản phẩm cần sản xuất, thời gian sản xuất, kết quả sản xuất; xác định
lịch trình cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất và hoạt động của doanh nghiệp,
thu thập, lưu trữ và xử lý các thông tin, phân tích các số liệu…
......................................................
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch
vụ Logistics
Chương 2: Thực trạng phát triển dịch
vụ Logistics ở Công ty TNHH CJ GLS Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy sự phát triển dịch
vụ logistics của công ty TNHH CJ GLS Việt Nam trong những năm tới
References Tiếng Việt
1. Nguyễn Văn Chương (2007), “Phát triển dịch vụ logistics khi Việt Nam hội nhập
WTO”, Tạp chí Hàng hải online.
2. Công ty TNHH CJ GLS Việt Nam (2007 – 2012), Báo cáo hàng năm
của Công ty TNHH CJ GLS Việt Nam (Hà Nội)
3. Đặng Đình Đào. Vũ Thị Minh Loan, Nguyễn Minh Ngọc, Đặng Thu
Hương và Phạm Thị Minh Thảo (2011), “Logistics: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam”, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh
tế quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
4. Đặng Đình Đào, Nguyễn Minh Sơn (2012), “Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập
quốc tế”, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh
tế quốc dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
5. Đinh Lê Hải Hà (2009), “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ logistics Việt Nam – Tiếp cận từ mô hình 5 lực lượng cạnh tranh”,
Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, ĐH Kinh tế quốc
dân Hà
Nội. 6. Đinh Lê Hải Hà (2011), “Phát triển thị trường dịch vụ logistics ở Việt Nam”,
Tạp chí Thương mại, số 35.
7. Đinh Lê Hải Hà, Nguyễn Xuân Quang (2011), “Bàn về các giác độ tiếp cận khi nghiên cứu và ứng dụng
logistics trong kinh tế và kinh doanh hiện nay”, Tạp chí Kinh tế
và Phát triển, số 171.
8. Trịnh Thị Thu Hương (2009), “Phát triển hệ thống logistics trên hành lang kinh tế
Đông – Tây”, Đề tài Nghiên cứu khoa học Cấp Bộ, Mã số B2009 – 08 –
58, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
9. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), “Luật Thương mại”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia.
10. Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại (2006), “Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về dịch vụ hậu cần
(logistics) và bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam”, Nxb Giao
thông vận tải, Hà Nội.
11. Đoàn Thị Hồng Vân (2003), “Logistic – Những vấn đề cơ bản”, Nhà xuất
bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
12. Đoàn Thị Hồng Vân (2003), “Quản trị Logistic”, Nhà xuất bản Thống
kê, Hà
Nội. Tiếng Anh
13. Amos Paul (2007), “Responding to global logistics trends with a
national logistics strategy”, World Bank, Washington DC.
14. Asian Development Bank – ADB (2007), “Development Study on the North – South Economic
Corridor”.
15. Australia Bureau of Transport Economics (2001), “Logistics in Australia, a preliminary analysis”,
Working Paper No. 49.
16. Ballou, R. H. (2004), “Business logistics/supply chain management”,
5th edition, Pearson Prentice Hall, USA.
17. Business Monitor International (2009), “Vietnam Freight Transport Report”.
18. Christopher (1998), “Logistics and Supply Chain Management”.
19. Curtis Spencer (2007), “Global Logistics Trends”, Real Estate
Logistics Forum, Journal of Commerce.
20. Lampert (1998), “Fundamentals of Logistics Management”.
21. Pavel Dimitrov (2002), “National Logistics System”.
22. Sangam VK (2006), “Global Logistics outsourcing trends-Challenges in
managing 3PL relationship”.
23. Sullivan (2006), “Vietnam transportation and logistics: opportunities
and challenges”. Website:
Nhận xét
Đăng nhận xét