TRUYỆN NGẮN
BẠCH ĐÀN VI VÚT
Những
ánh nắng cuối ngày đã nhạt dần, trời cũng nhá nhem tối mà những người
đi trên con đường mòn dẫn vào làng vẫn thấy lão Tự đang cặm cụi ngồi bên
mấy ngôi mộ. Người ta gọi lão là lão gàn vì có công việc, có nhà cửa,
vợ con đàng hoàng ở trong xóm không ở, tự nhiên đi ra cái chốn hoang
lạnh đó để ở với người âm.
Mỗi
sáng lão dậy sớm, tưới nước cho hết các bồn cây trong khuôn viên của
khu nghĩa trang. Những ngôi mộ vô danh được lão chăm chút kỹ hơn, bên
cạnh bát hương là hai chậu hoa nhỏ, khi thì cúc vạn thọ nở hoa vàng rực,
khi thì là những khóm cúc bách nhật nở hoa tím rịm, phủ lòa xòa xuống
như che mát cho những người nằm ở dưới. Không hiểu sao, khóm nào cũng
rực rỡ, cũng xum xuê. Ngày rằm, mùng một lão lại đốt hương cho từng ngôi
mộ rồi xì xụp khấn vái. Lão bảo “Chẳng biết họ ở đâu, người thân của họ
có muốn đến cũng không biết chỗ mà tìm, thôi thì mình chăm chỉ thắp
hương cầu khấn để họ được ấm áp, biết đường mà tìm về với người thân”.
Lão
kể, cái nghĩa trang này ngày xưa là một cái đồi, chiến tranh qua đi,
ngôi làng hoang sơ của lão hứng chịu bao vết thương, cũng có nhiều người
đã hy sinh, có người được đồng đội, người thân tìm thấy nhưng cũng có
những người ngã xuống nhưng mãi mãi vô danh bởi chẳng có một thông tin,
một dòng địa chỉ. Tất cả những ngôi mộ ấy được đưa về đây, người làng
bảo chỗ này cao ráo thoáng mát nhất làng nên để các anh nằm ở đó, các
anh sẽ thấy được tứ phía biết đường mà tìm về nhà. Nhưng rồi người ta
cũng dần quên, những ngôi mộ với những tấm bia đá nhuộm màu thời gian,
nhiều bia chữ đã mờ, chẳng ai chăm sóc, cỏ mọc lút đầu. Mỗi ngày đi làm
qua đó lão đều nhìn vào thấy sao nó âm u, hoang lạnh quá.
Ngày
đó lão làm bảo vệ cho một công ty sản xuất giày da trên thị trấn, hôm
thì trực ca ngày, hôm trực ca đêm, ngày nào trước khi đi lão cũng dắt
theo chiếc dao rựa được gói cẩn thận trong chiếc bao tải buộc ở sau xe.
Ngày nào đi làm về lão cũng ghé nghĩa trang để phát quang bụi rậm, cỏ
lác. Nếu ai hỏi thì lão bảo cắt cỏ về làm chất đốt. Nhưng lão cắt rồi để
đó thành từng lớp
cỏ khô chứ có bao giờ thấy lão mang thứ gì về nhà. Có người can ngăn
lão nói đừng phạm vào khu đó, ở đó toàn những linh hồn không biết đường
về, mình vào họ sẽ theo mình về nhà. Nhưng lão bỏ ngoài tai những lời
đồn đoán. Mặc kệ những lời phàn nàn của vợ con, ròng rã mấy tháng cả khu
đồi thông thoáng hơn hẳn, còn lão thì gầy rộc đi trông thấy. Khuôn mặt
hốc hác, hai hố mắt trũng sâu. Vợ lão bảo “Ông đừng ra ngoài nghĩa trang
nữa, nghĩ dại, lỡ ra”. “Việc gì mà bà phải lo, mình làm việc tốt các
anh chẳng quở mình đâu” - lão trả lời.
Người làng thì bảo lão bị những vong hồn vô danh ám nên mới tiều tụy
như thế. Lão mặc kệ, mỗi lần lão đi qua, những hàng cây bạch đàn được
trồng từ nhiều năm trước đó, không còn bị những cây tầm gửi, những thân
cỏ mềm quấn chân, vươn mình, vi vu trong gió như đang vẫy vẫy chào lão.
Đùng một cái lão tuyên bố với vợ con sẽ nghỉ việc ở công ty sản xuất giày da. Vợ lão bảo: “Ông định làm gì? ”.
Lão
im lặng không nói gì, nhưng hôm sau lão ở nhà thật. Sáng lão lấy xe đạp
đi một lát rồi về, chiều còn nắng chang chang, úp vội chiếc mũ cối lên
đầu lão lại đi tiếp, lúc về mặt lão đỏ gay, mồ hôi lấm tấm đầy trán. Vợ
hỏi:
- “Ông đi đâu mà hớt hải vậy? “.
- “Đi lên huyện” - lão đáp cụt lủn.
Vợ
lão thở dài không nói gì. Dạo gần đây lão ngủ không ngon giấc, đêm nào
cũng trằn trọc, có những đêm đang ngủ lão giật mình rồi thức trắng cả
đêm. Lão bảo cứ nằm xuống là nghe thấy những tiếng trò chuyện rì rầm, có
người kêu lão dậy.. . Lão bảo hay là các anh muốn lão ra đó ở cùng cho
ấm áp. Vợ lão vừa thấy sợ hãi, vừa thấy hoang mang.
Vậy hóa ra lão định ra đó thật.
Lão
đi lên huyện mấy lần nhưng người ta không đồng ý cho lão ra đó, người
ta bảo khu đó lâu nay vẫn để thế có sao đâu, người ta sợ lão ra đó chỉ
là cái cớ để chiếm dụng đất đai vì đó là khu đất đồi đẹp nhất, nằm ở
trục đường chính, tương lai thị trấn sẽ lên thị xã con đường này sẽ
khang trang to đẹp lắm. Lão một mực cãi, lão nào có biết đến cái gọi là
quy hoạch nào đó của chính quyền, vậy mà người ta quy chụp lão như thế.
Lão
buồn lắm. Nhưng ở nhà mãi cũng chán, lão lại đạp xe ra khu nghĩa trang.
Mấy chiếc cọc, một ít đất trộn rơm, một ít lá cọ, lão dựng thành túp
lều nho nhỏ. Chiếc chõng tre đặt ngay ngắn ở góc nhà. Đêm đầu tiên ngủ
quyết định ở lại đó lão cũng thấy chên chợn, nhưng sao đêm đó lão ngủ
ngon đến thế.
Sáng sớm thức dậy lão thấy người khỏe khoắn, sảng khoái hơn hẳn. Lão nghe thấy cả tiếng chim lích chích trên những tán bạch đàn.
Lão
ở đó được mấy hôm thì người ở trên huyện xuống. Họ ngồi chật cả một
chiếc ô-tô bảy chỗ. Những chiếc áo trắng tinh được đóng thùng thẳng
thớm. Trên tay là những chiếc cặp da mầu đen cũng bóng lộn. Họ đi phăm
phăm về phía túp lều của lão. Lúc đó lão đang trồng hoa trên mấy ngôi
mộ, thấy có người đến, lão dừng tay, đi về phía họ. Tiếng của ông chủ
tịch sang sảng: - “Ông Tự, ông Tự đâu rồi, tôi đã nói là không được dựng nhà trái phép ở đây sao ông vẫn làm”.
- “Tôi chỉ dựng cái chòi để chăm sóc hương hỏa cho các anh, chứ cái này gọi là nhà gì? ” - lão phân trần.
- “Chòi cũng không được phép, cái này nằm trong quy hoạch rồi, ông phải dỡ ngay đi, không tôi cho đốt liền đó” - Mặt mũi đỏ gay, ông chủ tịch huyện bực dọc.
Lão Tự im lặng không nói gì, ông chủ tịch càng điên tiết, sai nhân viên châm lửa đốt cái chòi. Lão Tự thư thả nhả từng chữ: - “Đây là chốn linh thiêng, xin đừng phạm đến các anh”.
Mấy
người đi cùng ông chủ tịch huyện nghe vậy cũng chùn bước, họ đã nghe
nhiều lời đồn thổi về khu nghĩa trang này, họ cũng đã biết lão Tự nhiều
năm tận tay chăm sóc, hương hỏa cho những linh hồn vô danh ở đây mà
không vì bất cứ danh lợi nào. Họ còn đang lừng khừng người này nhìn
người kia, thì ông chủ tịch huyện giật chiếc hộp quẹt trên tay một người
cấp dưới, phăm phăm đi về phía túp lều. Họ chỉ đứng cách túp lều có mấy
mét nhưng vừa bước đi được mấy bước, ông chủ tịch ngã bổ nhào về phía
trước, đầu đập vào hòn đá ngay sát bên lối đi, máu trên đầu rỉ ra. Mọi
người vội vàng chạy lại đỡ ông chủ tịch dậy. Lão Tự còn chạy vào lều lấy
ít thuốc lào để rịt vết thương cho ông ta. Máu từ trán chảy xuống mặt,
thấm vào chiếc áo trắng ông đang mặc loang lổ. Lão Tự nói: - “Các anh thiêng lắm, các ông quay vào vái các anh rồi về đi”.
Mọi người hốt hoảng dìu ông chủ tịch ra xe. Khi tất cả ngồi ngay ngắn trên xe rồi, ông chủ tịch lẩm bẩm “Đằng
nào sau chuyến này cũng phải di dời cái nghĩa trang này, để xem lão ta
cố thủ ở đó được bao lâu. Người không muốn ở đi ở với ma”.
Mọi người yên vị trên xe, lái xe đề mãi mà chiếc xe chỉ kêu xành xạch
rồi tắt máy. Trời đã về chiều, hoàng hôn buông tím cả một góc đồi. Lái
xe dò tìm mãi mà không ra nguyên nhân tại sao chiếc xe không chạy, mọi
người phải xuống xe ghé vai vào đẩy chiếc xe cũng không nhúc nhích. Sau
khi đoàn người đi ra, ông Tự quay vào dọn đống cuốc thuổng và những cây
hoa đang trồng dở lúc chiều. Ông cảm thấy khó chịu, buông những tiếng
thở dài nhè nhẹ. Hàng cây bạch đàn lao xao trong ánh chiều buông. Lúc
ông đi ra thấy chiếc xe vẫn đậu đó, đoàn người lố nhố vừa hò hét vừa
còng lưng đẩy xe phía đằng xa. Ông bỏ đồ nghề vào lều rồi đi ra, hạ
chiếc mũ cối đã bạc mầu, đưa chiếc khăn mặt đã cũ lên lau mặt, lão ngoắc
một người trong đó rồi bảo khẽ “Anh nói với ông chủ tịch xuống xe, hướng vào nghĩa trang mà xin các anh”. Nói rồi ông quay đầu đi vào.
Nhìn
qua cửa kính, ông chủ tịch nhìn thấy dáng đi xiêu xiêu của lão Tự chênh
vênh trên triền đồi, khi cậu nhân viên quay lại thì thầm, ông bước
xuống xe, hướng mặt về phía quả đồi lầm rầm khấn vái.
Chẳng
biết ông khấn những gì nhưng khi ông vừa vái xong thì chiếc xe nổ được
máy, mọi người vui mừng, ai nấy đều hướng mặt về quả đồi như thể nói lời
cảm ơn.
Sau
chuyến đi đó, những cán bộ chủ chốt của huyện trong chuyến đi cùng chủ
tịch lên đồi nghĩa trang hôm đó chẳng ai thấy ông đề cập đến chuyện di
dời nghĩa trang đi nơi khác. Cũng chẳng thấy ai nhắc đến vấn đề này. Một
ngày, người ta thấy nghĩa trang được trùng tu lại, những ngôi mộ được
xây mới, khắc bia mới, lối vào cũng được trải bê-tông từ phía chân đồi.
Bên cạnh những hàng cây cũ, nhiều gốc bạch đàn non được trồng xuống, lá
cây lúc nào cũng reo vui, vi vu trong gió. Túp lều của lão Tự cũng được
thay bằng một căn nhà cấp bốn khang trang hơn, có một phòng khách để
người dân thập phương ghé vào nghỉ chân, uống nước sau khi đi viếng mộ
các anh nằm đây.
Mỗi
ngày, người ta vẫn thấy lão Tự tưới cây, nhổ cỏ, chăm sóc cho những
khóm hoa, hương khói cho các anh ấm áp, nhiều người bảo thường thấy lão
rì rầm nói chuyện với các anh, nên lão được các anh phù hộ cho khỏe
mạnh, minh mẫn. Trên đồi, những hàng bạch đàn cứ lao xao, vi vút trong
gió.
Nhật Hạ
=======
Nhận xét
Đăng nhận xét